Monday, August 27, 2012

Italo Calvino - Marcovaldo - 02. Nghỉ mát ở băng ghế công viên

Trên đường tới chỗ làm mỗi sáng, Marcovaldo thường đi dưới tán lá xanh rì của một vuông đất nhiều cây cối, hao hao một khu vườn công cộng, nằm biệt lập ở chỗ giao nhau của bốn con đường. Anh đưa mắt nhìn lên những cành cây dẻ ngựa, tán lá ở đây dày đặc và chỉ để những tia nắng vàng ánh lên trong bóng râm nơi nhựa cây trong suốt; và anh lắng tai nghe tiếng huyên náo không mang một âm điệu nào của bọn chim sẻ, ẩn trên những cành cây. Đối với anh thì chúng trông như bầy chim sơn ca vậy, và anh tự nhủ: "Ồ, giá mà mình có thể được một lần thức giấc nhờ tiếng chim hót lảnh lót chứ không phải nhờ vào tiếng chuông báo thức, tiếng khóc của thằng bé Paolino hay tiếng quát tháo của cô vợ Domitilla!" hoặc anh tự nhủ thế này: "Ồ, phải chi mình có thể ngủ ở đây, chỉ một mình thôi, dưới bóng râm xanh rì mát mẻ như thế này, chứ không phải trong căn phòng nóng nực, chật chội; ở đây giữa chốn thanh vắng, chứ không phải giữa những tiếng ngáy và nói mớ của cả nhà, cùng tiếng xe điện chạy ngược xuôi ở phía dưới đường; ở đây trong bóng đêm bao trùm của tự nhiên, chứ không phải trong bóng tối giả tạo khi kéo rèm cửa xuống, với những ánh đèn pha chói loá cứ vụt sáng qua; ồ, phải chi tôi có thể nhìn thấy lá cây và bầu trời ngay khi mở mắt thức giấc!" Hàng ngày Marcovaldo đem theo những ý nghĩ đó và bắt đầu ngày tám giờ làm - cộng với những giờ làm thêm - trong vai trò một người lao động tay chân.

Ở một góc của vuông đất đó, bên dưới vòm cây dẻ ngựa, có một băng ghế nằm tách biệt, nửa kín đáo, nửa hé lộ ra cho người ta thấy. Và Marcovaldo đã lấy băng ghế đó làm của riêng mình. Trong những đêm hè đó, nơi căn phòng có năm người đang ngủ, lúc không thể ngủ được thì anh sẽ mơ tưởng tới băng ghế kia giống như một gã lang thang mơ về chiếc giường trong cung điện vậy. Một đêm nọ, khi mà vợ anh đang ngáy khò khò và bọn trẻ giãy đạp trong giấc ngủ, anh lẳng lặng ra khỏi giường, thay đồ, kẹp cái gối bên hông, ra khỏi nhà để tới khu đất ấy.  

Ở đó thật mát mẻ và yên bình. Anh tận hưởng ngất ngây khi tiếp xúc với những tấm ván đó, mà anh ta biết chúng được làm từ loại gỗ mềm và ấm, cảm giác thích hơn nhiều so với tấm nệm xẹp lép trên giường; anh có thể ngắm sao một lát, rồi ru mình vào giấc ngủ để bù đắp cho bản thân sau một ngày hứng chịu bao lời lăng mạ.

Những thứ anh tìm thấy được lúc này đây là không khí mát mẻ và yên bình, còn cái băng ghế kia thì có người rồi. Một cặp tình nhân đang ngồi đó, nhìn vào mắt nhau. Marcovaldo kín đáo lui ra. Anh nghĩ, "Trời cũng tối rồi, họ chắc sẽ không ở ngoài này cả đêm đâu! Rồi màn hôn hít, âu yếm đó cũng sẽ kết thúc thôi." Nhưng hai người đó không phải đang hôn hít, âu yếm nhau mà là đang cãi nhau. Và khi mấy người yêu nhau mà cãi nhau thì không ai dám chắc chuyện đó sẽ kéo dài tới chừng nào.

Anh chàng nói: "Tại sao em không thừa nhận là khi em nói những điều đó thì em biết như thế sẽ làm anh tổn thương và sẽ làm anh không vui với cái cách em giả vờ là em nghĩ như thế?"

Marcovaldo nhận ra là câu chuyện sẽ còn kéo dài thêm một chập nữa. 

"Không, em sẽ không thừa nhận chuyện đó," cô nàng trả lời, đúng như Marcovaldo đã mong đợi từ trước.

"Tại sao em không thừa nhận?"

"Em sẽ không bao giờ thừa nhận."

Khỉ gió thiệt, Marcovaldo nghĩ thầm. Anh bắt đầu đi dạo loanh quanh với cái gối kẹp bên hông. Anh đi lững thững và nhìn lên vầng trăng tròn đầy, to lớn bên trên những ngọn cây và mái nhà. Rồi anh ta quay trở lại băng ghế kia, đi né ra một quãng bởi anh sợ mình sẽ làm phiền họ, nhưng thực chất anh hi vọng mình sẽ làm họ cảm thấy khó chịu một chút để có thể đẩy họ đi chỗ khác. Nhưng họ cứ cuốn vào vụ cãi nhau đó đến mức không chú ý đến anh ta. "Em thừa nhận nó chứ?"

"Không, không, em chả thừa nhận tí ti gì cả!"

"Nhưng chuyện gì xảy ra khi em thừa nhận nó?"

"Cho dù em có thừa nhận chuyện gì đó đi nữa, thì em cũng sẽ không thừa nhận cái anh muốn em thừa nhận!"

Marcovaldo quay lại, tiếp tục nhìn vầng trăng, rồi đi tới ngắm nhìn cột đèn giao thông nằm xa xa đằng kia. Cột tín hiệu giao thông cứ chớp chớp đèn vàng, vàng, rồi lại vàng, liên tục chớp tắt. Marcovaldo so sánh ánh trăng với ánh đèn giao thông này. Mặt trăng với vẻ nhợt nhạt huyền bí của mình, cũng có màu vàng, nhưng cũng có màu xanh lục, và trong sâu thẳm thậm chí còn có màu xanh lam nữa; còn đèn giao thông thì chỉ có màu vàng bé nhỏ quen thuộc. Và mặt trăng, bao giờ cũng êm đềm, soi rọi ánh sáng một cách từ tốn, thi thoảng bị một làn mây mỏng manh nào đó che phủ, và nàng trăng với vẻ uy nghi cho phép những làn mây như thế rũ xuống vai mình; còn cây cột đèn giao thông vẫn luôn ở đó, sáng rồi tắt, sáng rồi tắt, theo một nhịp đập đầy sinh lực một cách giả tạo, thực chất nó đang mòn mỏi và không có sự tự do quyết đoán, để rồi trở thành một kẻ nô lệ.

Anh ta quay lại xem thử cô gái đã thừa nhận gì chưa. Hẳn nhiên là không rồi: chẳng có vụ thừa nhận gì ở cô nàng cả. Thực tế thì giờ đây cô nàng không phải là người cứ chối phăng việc thừa nhận gì đó, mà chính anh chàng mới là người làm vậy. Tình thế đã xoay chuyển hoàn toàn, và tới phiên cô nàng nói với anh chàng: "Vậy giờ anh thừa nhận chứ?", và anh chàng cứ nói không. Nửa tiếng đồng hồ cứ diễn ra như thế. Cuối cùng thì anh chàng cũng thừa nhận, hoặc là cô nàng thừa nhận cũng nên; dù gì thì Marcovaldo đã thấy họ đứng dậy, nắm tay nhau rời khỏi nơi đó.

Anh chạy tới băng ghế, thả mình lên đó; nhưng trong khi đó, trong lúc chờ đợi thì trong lòng anh đã mất đi một phần cảm giác ngọt ngào mà anh nghĩ mình sẽ có được ở nơi đây, và lúc này anh nhớ ra cái giường ở nhà mình không đến nỗi khô cứng như mọi khi. Nhưng đây chỉ là những điều vặt vãnh thôi; anh vẫn nhất quyết tận hưởng đêm nay ở ngoài trời. Anh vùi mặt vào gối và chuẩn bị ngủ, lâu lắm rồi anh không còn ngủ kiểu này nữa.

Giờ thì anh đã tìm được tư thế thoải mái nhất. Anh sẽ không nhích một li nào cho dù có gì xảy ra trên cõi đời này đi nữa.  Dù vậy thật tệ khi nằm kiểu này, tia nhìn của anh không bao lấy khung cảnh dành riêng cho cây cối hay bầu trời, để trong lúc ngủ thì đôi mắt anh sẽ nhắm lại trước khung cảnh rất đỗi thanh bình giữa tự nhiên. Trước mặt anh là hình ảnh thu gọn của một cái cây, tiếp đó là thanh gươm vươn ra từ phía trên bức tượng đài của một vị tướng, rồi một cái cây khác, một tấm bảng thông báo, một cái cây thứ ba, và rồi xa hơn chút là ánh trăng lấp lánh, giả tạo, cây cột đèn giao thông đó, nó vẫn đang chớp tắt ô màu vàng của nó, vàng, rồi lại vàng.

Cũng phải nói rằng hệ thần kinh của Marcovaldo dạo gần đây đang trong tình trạng khốn cùng đến mức lúc ấy tuy đã mệt lả người rồi, nhưng chỉ cần một thứ nhỏ nhặt thôi cũng đủ làm anh tỉnh thức; anh ta chỉ phải nghĩ xem thứ gì đang làm anh phiền muộn lúc này đây, và thế là không thể ngủ nổi. Và giờ đây thứ đang làm anh phiền muộn là ánh đèn giao thông chớp tắt liên hồi kia. Nó ở xa đằng kia, một con mắt màu vàng, nhấp nháy, chỉ mình nó thôi: không có gì để bận tâm đến. Nhưng đầu óc Marcovaldo ắt là đang kiệt quệ lắm rồi: anh nhìn chăm chú vào ánh đèn nhấp nháy đó và liên tục tự nhủ: "Mình sẽ ngủ thế nào đây nếu thứ đó không ở đằng kia! Mình sẽ ngủ thế nào đây!" Anh nhắm mắt lại và dường như cảm giác được cái sắc vàng ngớ ngẩn kia vẫn đang nhấp nháy bên dưới mí mắt; anh ép chặt đôi mắt mình cho nó nhắm lại và anh có thể thấy hàng tá những đèn hiệu giao thông; anh lại mở mắt ra, vẫn là thứ đó cứ tiếp diễn liên hồi.

Anh bật dậy. Anh phải đặt một cái màn chắn giữa mình với ánh đèn giao thông kia. Anh đi tới tận chỗ tượng đài vị tướng kia và nhìn quanh quất. Ở dưới chân tượng đài, trên một cái giá gỗ có một vòng nguyệt quế xinh xắn và dày cộm, nhưng lúc này thì nó đã khô héo và rã rời, trên đó có dải ruy-băng bản rộng với dòng chữ đã nhạt nhoà đi theo năm tháng: "Đội kị binh dùng thương thứ 15 nhân kỉ niệm ngày chiến thắng huy hoàng". Marcovaldo leo lên bệ, nâng cái vòng nguyệt quế và treo nó lên thanh kiếm lưỡi cong của vị tướng.

Người gác đêm Tornaquinci đang đi tuần, ông ấy đang đạp xe băng qua khu đất ấy; lúc đó Marcovaldo núp đằng sau bức tượng. Tornaquinci thấy bóng bức tượng di động trên mặt đất: ông ta dừng lại, lòng đầy ngờ vực. Ông phát hiện vòng nguyệt quế ở trên thanh kiếm: ông chợt nhận ra có thứ gì đó khác lạ, nhưng không biết là gì. Ông chĩa đèn pin lên; đọc dòng chữ: "Đội kị binh dùng thương thứ 15 nhân kỉ niệm ngày chiến thắng huy hoàng". Ông gật gù ra vẻ đồng tình rồi đạp xe đi chỗ khác.

Để chờ ông ta đi khỏi hẳn, Marcovaldo vòng sang bên kia khu đất. Ở con đường cạnh đó, một nhóm công nhân đang sửa cái ghi trên đường ray xe điện. Buổi đêm trên những con đường vắng lặng bóng người, những nhóm người ít ỏi đó đang túm tụm vào nhau dưới ánh sáng dịu nhẹ toả ra từ những ngọn đuốc tụ lại với nhau, tiếng nói họ vang vọng, rồi tắt lịm đi ngay tức thì, có vẻ bí ẩn, như của mấy người làm nhiệm vụ chuẩn bị những thứ mà các cư dân lúc ban ngày ắt là chẳng bao giờ biết được. Marcovaldo tiến đến, đứng nhìn ngọn lửa, nhìn những cử động của người công nhân, bằng một sự chú tâm thoáng chút bối rối, rồi đôi mắt anh ta cứ khép dần vì cơn buồn ngủ ập tới. Anh lục tìm điếu thuốc trong túi, để giữ mình thức tỉnh; nhưng anh ta không có que diêm nào hết. "Ai đó sẽ cho tôi chút lửa chứ?", anh hỏi mấy người công nhân. "Dùng cái này nhé?" người đàn ông cầm đuốc đáp lại, vung vẩy đốm lửa.

Một gã công nhân khác đứng lên, đưa anh ta một điếu thuốc đang cháy: "Anh cũng làm việc ca đêm à?"

"Không, tôi làm việc ban ngày," Marcovaldo đáp lại.

"Vậy thì anh làm gì vào đêm hôm thế này? Chúng tôi sắp nghỉ rồi."

Anh ta quay trở lại băng ghế. Anh nằm xuống. Giờ thì ánh đèn giao thông không còn trong tầm mắt nữa; rốt cuộc thì anh cũng có thể ngủ được.

Trước đó thì anh không để ý đến tiếng động. Giờ thì tiếng phì phò, giống như hơi thở hít vào đầy nét sầu thảm, rồi tiếng sột soạt không ngớt, tất cả những thứ tiếng ấy len vào đầy tai anh. Không một thứ âm thanh nào có thể xé nát tâm can bằng thứ âm thanh của ngọn đuốc bập bùng, nó trông như một tiếng thét bị bóp nghẹt lại. Anh khoanh tay nằm im trên băng ghế, mặt anh úp vào cái gối đã được gấp lại trước đó, Marcovaldo không thể tìm ra lối thoát, và tiếng động cứ tiếp tục gợi lên khung cảnh được ngọn lửa xám xịt soi rọi, ngọn lửa này rải những ánh vàng ra khắp mọi nơi xung quanh nó, có đám đàn ông ngồi xổm trên mặt đất, họ đội mũ có lớp kính râm bảo hộ che mặt, ngọn đuốc nằm trong tay họ đung đưa theo nhịp cơ thể rung rinh liên hồi, vầng bóng đêm ở xung quanh cái giá đẩy để dụng cụ, với đám dây nhợ vươn lên tới được cái giàn cao như giàn mắt cáo. Anh mở mắt ra, xoay người lại, nhìn lên những vì sao nằm len lỏi giữa các cành cây. Những chú chim sẻ vô tâm kia vẫn cứ ngủ ở trên đó, giữa những cành lá.

Để có thể ngủ như một con chim, để có bộ cánh mà bạn có thể rúc đầu mình dưới đó, thì cõi sống ở những cành cây vốn nằm lơ lửng bên trên cõi sống trần thế sẽ hiếm khi lướt nhìn xuống phía dưới, nằm ở một nơi tách biệt và âm thanh bên trong đó không lọt ra ngoài. Một khi bạn bắt đầu từ khước trạng thái hiện tại của mình, thì bạn sẽ không biết được mình có thể tới được nơi đâu. Giờ thì Marcovaldo, để có thể ngủ được, cần một thứ gì đó; nhưng bản thân anh không biết đó thật ra là gì; vào lúc này thì thậm chí sự tĩnh lặng đích thực có lẽ vẫn chưa đủ. Anh ta cần phải có một âm thanh nào đó làm nền, êm dịu hơn sự tĩnh lặng, một cơn gió nhẹ thoảng qua đám bụi cây dày đặc trong khu rừng, tiếng róc rách của dòng nước chảy tuôn ra rồi mất hút trong cánh đồng cỏ.

Anh ta có một ý tưởng và đứng dậy. Nó không hẳn là một ý tưởng, bởi lẽ trong cơn buồn ngủ nửa mê nửa tỉnh thì anh không thể hình thành được một ý nghĩ nào cho ra hồn; nhưng nó tựa như một mảng kí ức mà ở đâu đó xung quanh đây có một thứ kết nối được với ý nghĩ về nước, với dòng chảy róc rách và khẽ khàng này.

Thực tế có một đài phun nước gần đó, một công trình xuất sắc về điêu khắc và thuỷ lực học, với những tiểu nữ thần, các vị thần rừng, thần sông, họ quấn lấy những tia nước, những dòng thác, một cuộc chơi của nước. Có điều nó khô queo: như vào ban đêm, hay vào mùa hè, vì lúc đó hệ thống ống dẫn nước ít hoạt động hơn, thì họ mới tắt đài phun nước. Marcovaldo đi loanh quanh một lúc như một kẻ mộng du; bằng bản năng chứ không phải lí trí, anh biết rằng một cái bồn phải có một cái vòi. Một người mắt tốt có thể tìm ra được cái anh ta đang kiếm thậm chí với đôi mắt nhắm nghiền. Anh mở vòi nước: từ vỏ ốc xà cừ, từ chùm râu, từ lỗ mũi của mấy con ngựa, những tia nước tuyệt diệu vọt ra, những hang động giả khoác lên mình lớp nước óng ánh, và toàn bộ nước chảy ra tạo nên âm thanh vang dội tựa như tiếng organ của dàn hợp xướng vang lên ở giữa khu đất trống trải rộng lớn này, cùng với tất cả những âm thanh xào xạc và nhiễu loạn mà các dòng nước có thể tạo ra. Người gác đêm, Tornaquinci, lại đi tới trên chiếc xe đạp màu đen nhẻm như than, đang đút bản ghi chép của mình phía dưới cánh cửa, khi đó ông đột nhiên thấy cả đài phun nước bùng lên trước mắt mình như một màn pháo hoa bằng nước. Ông ta gần như lạng quạng suýt chút nữa là té khỏi yên xe.

Anh cố hé mở mắt ra càng ít càng tốt, để giữ lại được một chút cảm giác buồn ngủ mà anh có được trước đó, Marcovaldo chạy tới thả mình xuống băng ghế một lần nữa. Ở đó, giờ đây trông như thể anh ta đang nằm trên bờ suối, với hàng cây trên đầu mình; rồi anh chìm vào giấc ngủ.

Anh nằm mơ thấy buổi ăn tối, đĩa ăn được đậy lại giống như để giữ món mì ống còn nóng. Anh mở ra và có một con chuột chết bốc mùi nằm ở đó. Anh nhìn qua đĩa vợ mình: một con chuột chết khác. Trước mặt mấy đứa con anh, có thêm nhiều con chuột nữa, nhỏ hơn, cũng đang thối rữa. Anh mở cái liễn và thấy một con mèo, phơi bụng tênh hênh; và mùi hôi thối đã đánh thức anh ta.

Ở đằng kia, cách chỗ anh không xa lắm, có một chiếc xe tải chở rác đi ngang qua vào buổi đêm để đổ rác. Trong ánh sáng lờ mờ từ đèn pha, anh có thể nhận ra cái cần trục đang hoạt động ồn ào, những bóng người đang đứng trên đỉnh núi rác, dùng tay phụ gắn cái thùng chứa vào bộ ròng rọc, trút rác vào xe tải, rồi dùng xẻng đập vào nó, giọng nói họ dữ tợn và nhát gừng giống như chuyển động của cái cần trục: "Lên cao nữa… thả nó ra ...kệ xác mày đi…," với tiếng loảng xoảng của kim loại tựa như tiếng cồng chiêng, và rồi động cơ gầm lên, chậm rãi, chỉ để dừng ở cách đó một đoạn, khi đó các thao tác bắt đầu lặp lại.

Nhưng cho đến giờ thì giấc ngủ của Marcovaldo đã đạt được tới điểm không còn âm thanh nào có thể len vào nữa, những giọng nói thô lỗ và chướng tai này hiện ra như thể bị dìm vào một vùng bao bọc mềm mại, có lẽ bởi vì phần hoạt động luôn diễn ra đều đều, trước sau như một để nén rác vào trong xe. Chính mùi hôi thối làm anh ta tỉnh thức, cái ý tưởng khôn kham về mùi hôi thối đã làm mùi đó rõ nét hơn nữa, bởi đó mà thậm chí những âm thanh, những âm thanh ẩm ướt và xa xôi, cùng hình ảnh chiếc xe tải với bộ cần trục kia, được khắc hoạ trên nền ánh sáng, đã không hiện lên trong đầu anh như là âm thanh và hình ảnh nữa mà chỉ hiện ra như một mùi hôi thối. Rồi Marcovaldo phấn khích tột độ, dùng trí tưởng tượng nơi lỗ mũi mình để theo đuổi một cách vô ích mùi hương thơm ngát của một lùm hoa hồng nào đó.

Người gác đêm Tornaquinci đổ mồ hôi lấm tấm trên trán khi ông thoáng thấy một bóng người đang chạy bằng cả bốn chi dọc theo một luống hoa, rồi thấy bóng hình đó giận dữ bứt mấy đoá hoa mao lương, xong biến mất tăm. Nhưng ông ta nghĩ đó chắc là một con chó, vậy trách nhiệm là của người bắt chó, hoặc đó là ảo giác, trách nhiệm của bác sĩ tâm thần, hoặc đó là một người sói, thì khi ấy trách nhiệm sẽ thuộc về kẻ chỉ có Chúa mới biết là ai nhưng tốt nhất là không phải ông ta; rồi ông ấy ngoặt đi hướng khác.

Trong khi đó, lúc quay trở lại chỗ ngủ, Marcovaldo ép đám hoa rũ rượi đó sát mũi mình, để lấp đầy khứu giác của mình bằng mùi hương hoa: nhưng anh hầu như không thể ép lấy ra mùi hương nào từ những đoá hoa gần như không mùi đó. Tuy thế, mùi của sương đêm, của đất, của đám cỏ dập, cũng đã trở thành một niềm an ủi tuyệt vời rồi. Anh xua đi nỗi ám ảnh về mớ rác nọ và ngủ thiếp đi. Rồi bình minh ló dạng.

Anh thức giấc do bầu trời tràn ngập ánh nắng bỗng mở toang ra trên đầu, mặt trời bùng lên gần như xoá nhoà những lá cây, rồi sau đó hình ảnh chúng dần dần hiện rõ ra trước tầm nhìn hấp háy của anh. Nhưng Marcovaldo không thể ở yên đó bởi vì một cơn lạnh run khiến anh nhảy bật dậy: nước bắn tung toé từ cái vòi nước được người làm vườn dùng để tưới mấy luống hoa, làm cơn lạnh len lỏi vào bên trong quần áo. Và xung quanh có tiếng xe điện chạy ầm ĩ, tiếng xe tải đi vào khu chợ, tiếng xe đẩy, xe tải nhỏ, rồi tiếng những người công nhân lái xe máy vội vã chạy tới xưởng làm, tiếng rèm kéo lên để lộ khung cửa sổ lấp lánh. Miệng và mắt anh dính chặt với nhau, lưng cứng đờ ra và một bên hông bị bầm, thế là Marcovaldo hối hả đi tới chỗ làm mà trong lòng đầy hoang mang.

Đoàn Duy chuyển ngữ từ bản Anh văn của William Weaver


Nguồn:

Italo Calvino; Park-bench vacation; Marcovaldo: or the Seasons in the City (bản dịch Anh văn của William Weaver). Harcourt Brace Jovanovich, 1983. 

No comments:

Post a Comment