Nói về mặt chính trị, Tuyên ngôn Độc lập do Hồ Chí Minh đọc trước đám đông ở Hà-nội vào ngày 2/9/1945 là một trong những văn bản quan trọng nhất trong lịch sử Việt-nam thời hiện đại. Đối với nhiều người thì nó biểu trưng cho hồi cáo chung của sự cai trị ngoại quốc, mặc dù chuyện này còn cần đến chín năm thử thách bằng máu lửa. Chắc chắn nó đánh dấu việc thành lập nước Việt-nam Dân chủ Cộng hoà (VNDCCH), tiền thân của hệ thống nhà nước ngày nay, mặc dù ông Hồ đã cẩn trọng gọi tên chính quyền của mình là lâm thời, đợi tổng tuyển cử cả nước và ban hành hiến pháp.
Cơ bản hơn thì bản Tuyên ngôn chứa đựng một thế giới quan đầy kịch tính, một lịch sử cô đặc, một vài khẳng định táo bạo, những cụm từ sinh động, và hình tượng đầy cảm xúc – tất thảy những điều này nhằm cố gắng thu hút trí tưởng tượng của trước tiên là những khán thính giả trực tiếp trong số hàng mấy trăm ngàn người, và sau đó là của hàng triệu người Việt-nam khi họ nghe lại bài đọc đó hoặc đọc nó trên báo chí. Cùng với hình ảnh trực quan của một quý ông mảnh khảnh lúc tuyên bố độc lập cho Việt-nam sau tám mươi năm chịu ách nô dịch, những điều Hồ Chí Minh nói với người dân ngày ấy đã giúp tiếp nhiên liệu tranh đấu sau đó chống trước tiên là việc quay lại của người Pháp, và tiếp sau là người Mĩ. Mỉa mai thay, tuy những phần then chốt trong bản Tuyên ngôn không nhắm trực tiếp đến người Việt mà nhắm đến người nước ngoài nhưng lại bị phần lớn những thành phần được nhắm tới đó làm lơ đi.
Hồ Chí Minh từ
vùng đồi núi bắc bộ tới Hà-nội trước đó chỉ một tuần, được che đậy bí ẩn và
được nhanh chóng chuyển tới chỗ ở bí mật ở phố Hàng Ngang để đề phòng những đòn
tấn công phủ đầu của nhiều phe đối thủ. Việt Minh đã kiểm soát hầu hết các toà
nhà chính phủ từ ngày 19 tháng Tám, và có nhiều bằng chứng cho thấy sự ủng hộ của
quần chúng đối với chính quyền mới chớm, tuy vậy không thể loại trừ sự phản
công của quân đội Nhật hoặc của lực lượng cảnh vệ Pháp, chưa đề cập đến việc có
thể có kẻ sát thủ đơn độc người Việt nào đó. Bên ngoài những khả năng báo điềm
gở như vậy, ông Hồ có thể nhận ra được rằng khi tránh lộ diện trước lúc xuất
hiện chung cuộc của mình trước bàn dân thiên hạ thì ông sẽ làm tăng lên hiệu
ứng kịch tính, làm tăng vầng hào quang của sự tò mò và làm tăng sự phỏng đoán
đầy hào hứng vốn đã vây xung quanh ông rồi.
Suốt những tháng
ngày cao trào trong năm 1945, Hồ Chí Minh chọn cách không lộ thân phận mình ra
trước công chúng, hay thậm chí trước hầu hết những thành viên thuộc Đảng Cộng
sản Đông Dương. Có lẽ không tới 500 người biết được chắc chắn ông chính là nhân
vật Nguyễn Ái Quốc huyền thoại, người đã cố gắng trình bản thỉnh nguyện của
người yêu nước lên Hội nghị Versailles năm 1919, trở thành một thành viên sáng
lập Đảng Cộng sản Pháp, làm việc cần mẫn cho Quốc tế Cộng sản ở Trung-quốc và
Đông Nam Á, và sau đó được báo tử tại nhà tù Hồng-kông. Nguyên do chính cho
việc từ chối phục hồi lại cái tên Nguyễn Ái Quốc (cũng là bút danh) có liên
quan đến mong muốn của Đảng nhằm loại bỏ hình ảnh trước 1941 của việc đấu tranh
giai cấp và chủ nghĩa quốc tế vô sản, nhằm ủng hộ đoàn kết các giai cấp, tinh
thần yêu nước bất diệt, và sự thăng hoa trong mặt trận thống nhất dân tộc Việt
Minh. Cho dù Ái Quốc nghĩa là “yêu nước”, nhưng người sở hữu biệt danh này đã
được nhận dạng công khai là một người theo Lenin và chủ trương chiến đấu. Cái
tên Chí Minh, nghĩa là “ý chí vươn tới sự khai minh”, nghe có âm hưởng truyền
thống nhiều hơn. Trong một thời gian, ông Hồ có vẻ chần chừ trong việc cho cái
tên Nguyễn Ái Quốc đi vào quên lãng hoàn toàn, bởi ông đã dùng tên đó để kí hai
bản kêu gọi gây xúc cảm hồi năm 1941 và giữa tháng Tám 1945. Không lâu trước
khi tin tức lan khắp hàng ngũ Đảng cho biết hai người ấy thực chất là một. Sau
một hai năm, hầu hết người dân cũng đều nghe nói đến điều này, tuy thế mối kết
nối vẫn chưa được đưa ra chính thức đến tận nhiều năm sau đó. Một bầu không khí
bí ẩn nhất định luôn bao quanh lấy ông Hồ, là thứ mà ông không bao giờ ngăn
lại.
Cuối tháng Tám
năm 1945, Hồ Chí Minh lo chuyện tác động đến các lãnh đạo của phe Đồng Minh
theo hướng công nhận nền độc lập của Việt-nam, cũng như chuyện ông phải nắm
quyền lực nhà nước hoặc phải tự phóng chiếu bản thân như là biểu tượng dân tộc
của sự thống nhất và tự quyết. Trong suốt thế chiến thứ nhì, ông nhiều lần tìm
đến các viên chức của Mĩ và Trung-quốc, và dùng nhiều kẻ trung gian đáng tin
cậy nhằm tiếp cận được tổ chức “Nước Pháp Tự do”. Ở tổng hành dinh tại
Kim-long/Tân-trào thuộc vùng đồi núi bắc bộ trong suốt mùa hè năm 1945, ông Hồ
đã đều đặn nghe đài tin tức ở tần số ngắn của phe Đồng Minh và lấy được thêm
thông tin mật từ những nhân viên tình báo Mĩ. Toan tính của ông trong việc gửi
thông điệp cá nhân đến các lãnh đạo phe Đồng Minh gặp thất bại, nhưng các sĩ
quan tham mưu ở cấp chiến trường và các đặc vụ tình báo thì không làm lơ ông.
Ông Hồ có một số ý tưởng và cụm từ mà rốt cuộc sẽ đi vào bản Tuyên ngôn Độc lập
và ông dường như đã đọc thử chúng cho Thiếu tá Allison Thomas cùng những thành
viên khác trong đội OSS [Cơ quan dịch vụ chiến lược] tại Tân-trào, và có lẽ họ
thất vọng khi chúng thiếu đi tính chất tinh vi chính trị ở thời điểm quyết định
này trong lịch sử thế giới, cũng như lịch sử Việt-nam.
Tại Hà-nội, Hồ
Chí Minh tổ chức phiên họp nội các đầu tiên vào ngày 27 tháng Tám, tại đó họ ấn
định Chủ nhật, ngày 2 tháng Chín, sẽ là Ngày lễ Độc lập Dân tộc, với những buổi
làm lễ trang trọng được tổ chức ở càng nhiều địa điểm càng tốt [1].
Vào ngày 27 hoặc 28, ông Hồ ngồi trong một căn phòng ở 48 phố Hàng Ngang để
thảo nên bản Tuyên ngôn, có lẽ để tham khảo lại những ghi chú mà trước đó ông
mang theo bên mình từ Tân Trào. Một bức hoạ được tạo ra nhiều năm sau sự kiện
đã cho người ta thấy ông ngồi ở chiếc bàn tròn theo phong cách deco, với điếu
thuốc luôn xuất hiện ở tay trái, tay phải cầm cây viết mực có ngòi thép, đang
chăm chú ghi ra những dòng đầu tiên [2]. Cảnh này trông bất
thường, khi mà bình thường ông Hồ thích soạn thảo bằng một trong những món tài
sản quý giá của mình, một chiếc máy đánh chữ cũ mòn hiệu Hermes.
Ở bất kì mức độ
nào, vào ngày 29 có một bản đánh máy, “với nhiều chữ bị gạch bỏ và được viết đè
lên bằng mực cùng với nhiều ghi chú bên lề”, theo trí nhớ của Archimedes Patti,
sĩ quan cao cấp đại diện cho OSS tại Hà-nội, là người được ông Hồ đưa văn bản
tận tay cho đọc đến khi chợt nhận ra Patti không hiểu tiếng Việt. Sau khi ông
Hồ kêu một thanh niên dịch tại chỗ, Patti “nổi gai” khi nghe bản Tuyên ngôn Độc
lập của chính đất nước mình năm 1776 được trích dẫn. Patti nhanh chóng hồi tâm
lại để chỉ ra lỗi chuyển dịch trong đoạn trích đó, nhưng khi cố gắng đáp lại
những câu hỏi tiếp theo của ông Hồ, thì lại không thể nhớ thêm bản gốc của nước
Mĩ. Đến thời điểm này, Patti bảo rằng ông ấy “thấy khó chịu khi nhận ra” việc
mình can dự vào “chuyện tạo lập một thực thể chính trị”, một ấn tượng mà ông ấy
không mong muốn tạo ra [3].
Ông Hồ đang tận
dụng những loại tiền lệ nào khi quyết định tự trình hiện mình ra trước một nhóm
quần chúng đông đảo và đọc lời tuyên ngôn chính thức? Người cai trị Việt-nam,
làm theo châm ngôn “thân quá hoá nhờn”, trước đó chuộng việc tránh khỏi tầm mắt
của dân thường ngoại trừ những dịp nghi lễ đặc biệt, hoặc khi thiết lập cuộc
tuần du xuống miền quê. Và hiếm có thần dân nào từng nghe được giọng nói của
bậc quân vương. Thậm chí ở thiết triều thì bậc quân vương thường không nói trực
tiếp với cả nhóm người, mà dựa vào những kẻ trung gian để ban những sắc dụ bằng
giọng đọc trang trọng nhất. Một ngoại lệ đáng lưu tâm có lẽ là những buổi lễ ăn
thề nhất định nào đó. Ví dụ vào năm 1119 thời Công nguyên, Lí Nhân Tông dường
như đã đích thân nói chuyện với binh sĩ tại hội thề, nhằm chuẩn bị cho chiến dịch
chinh phạt chống lại kẻ lãnh đạo địa phương vốn từ chối việc triều cống cho nhà
vua [4]. Như ta sẽ thấy, buổi lễ ngày 2 tháng Chín bao gồm cả
những lời thề được nói ra từ cả hai phía.
Chính quyền
Việt-nam mà được người Nhật cho phép thiết lập nên hồi tháng Tư năm 1945 rõ
ràng không nghĩ tới chuyện triệu tập buổi tụ họp quần chúng để ra mắt với đất
nước. Tuyên bố chính sách đầu tiên của nội các được thủ tướng Trần Trọng Kim
đọc trước buổi họp nhỏ các thành viên chủ chốt vào ngày 8 tháng Năm. Phải thừa
nhận là có một mối hiểm hoạ nào đó về việc quân Đồng minh sẽ bất thần oanh tạc
vào bất kì đám đông nào được cho là thân Nhật, nhưng điều này không ngăn được
người bộ trưởng trẻ tuổi tràn đầy nhiệt huyết, Phan Anh, người đã bỏ ba tháng
tiếp sau đó để đi từ thị xã này sang thị xã nọ, hô hào thúc giục người nghe từ
đám nhỏ đến đám lớn. Đối với Hoàng đế Bảo Đại, ông ấy dường như không được mời
nói chuyện trước công chúng cho đến lúc đọc lời tuyên bố thoái vị đầy cảm xúc
trước đám đông ở cổng Ngọ Môn tại Huế vào ngày 30 tháng Tám.
Gần như chắc
chắn Hồ Chí Minh lấy nguồn cảm hứng chủ yếu cho ngày 2 tháng Chín không phải từ
những nguồn tài liệu thuộc bản xứ, mà còn từ cảnh lễ chính trị lộng lẫy và
hoành tráng mà ông quan sát được ở tây Âu và khối Soviet. Điều cần thiết hơn
hết là phải chọn không gian rộng rãi không bị các chướng ngại vật che khuất tầm
nhìn nhằm đủ chỗ chứa lượng khán thính giả càng nhiều càng tốt trong khả năng
phát sinh với chỉ vài ngày vận động. Quảng trường Puginier, nằm cạnh Phủ Toàn
quyền, đã đáp ứng được yêu cầu này một cách đáng kể, và nó còn có lợi thế thêm
vào là cây cột cờ cao trên đó có thể treo lên ngọn cờ Việt Minh, là thứ sớm trở
thành quốc kì. Cái nền cao được làm vội vã từ gỗ và được trang hoàng bằng lớp
vải trang trí trắng và đỏ, do đó cho phép hầu hết những khán thính giả tiềm
năng có thể thấy được những vị lãnh đạo mới của mình, nếu mà có thì cũng như
mấy chấm li ti, không khác gì Quảng trường Đỏ tại Moskva khi Stalin chọn lăng
Lenin làm chỗ diễn thuyết trước đám đông.
Buổi diễn thuyết
công chúng được sắp đặt, cực kì quan trọng nếu những lời của Hồ Chí Minh có thể
vươn xa hơn một nhóm thiểu số nhỏ bé trong đám đông. Người ta cũng lên kế hoạch
phát bài nói chuyện của ông Hồ trực tiếp đến cả nước, nhưng điều này gặp phải
nhiều vấn đề. Những kĩ thuật viên không thể gắn micrô của khán đài diễn thuyết
cạnh đường dây điện thoại nối với Đài phát thanh Hà-nội, là nơi mà trong bất kì
sự kiện nào cũng chưa hoàn toàn thoát khỏi quyền kiểm soát của Nhật. Một máy
phát lưu động, trước đây được dùng để nối kết các bãi mìn của Pháp, được trưng
dụng với sự giúp đỡ từ người con trai của Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936), một nhà
báo nổi tiếng, một dịch giả, và là người biện giải cho chính sách thuộc địa của
Pháp. Tuy vậy vào buổi sáng ngày 2, những rào chắn của Nhật đã ngăn xe chở
thiết bị máy phát tới vườn bách thảo [5].
Hồ Chí Minh
không thể mắc phải chứng run sợ khi đứng trên sân khấu ở sự kiện lịch sử này,
khi mà ông đã tham dự rất nhiều buổi gặp gỡ công chúng và những buổi hội nghị
lúc ở hải ngoại. Cách dùng tiếng Việt của ông vẫn còn mạnh mẽ và tự tin, mặc dù
trước năm 1941 đã ở nước ngoài ba mươi năm. Nếu ông có lo ngại điều gì thì đó
là việc làm sao thiết lập quan hệ thân ái với đám đông, vốn là những người
không biết gì về thân thế cá nhân của ông và những người này cũng sẽ không được
làm sáng tỏ thêm nữa. Trong khi có một số người ắt là đã tham dự vào
những buổi tụ họp đông đảo hợp pháp vào cuối thập niên 1930, hay có liên quan
đến những buổi họp hành trong suốt nhiều tuần trước ngày 2 tháng Chín, do vậy
họ biết khi nào thì giữ im lặng và tập trung và khi nào thì vỗ tay, reo hò hay
lặp đi lặp lại những khẩu hiệu một cách hồ hởi, còn có những người khác tiến
vào quảng trường và họ có thể hoàn toàn lạ lẫm với những hình thức tương tác
chính trị kiểu Tây phương thế này. Có lẽ đây là một trong những lí do tại sao
ông Hồ giữ cho bài diễn thuyết của mình được ngắn gọn, và trong chừng mực chúng
ta biết được thì ông không cố gắng “nhử” khán thính giả vào những làn sóng vỗ
tay hay reo hò sau mỗi cử chỉ hùng biện.
Khi mặt trời lên
cao vào ngày 2 tháng Chín ở Hà-nội, thời tiết lúc đó quang đãng và nóng, với
cơn gió hiu hiu thổi từ phía tây. Nhiều người xem buổi sáng ấy như ngày lễ Tết,
họ đảm bảo nhà cửa sạch sẽ, đốt nhang trên bàn thờ gia đình, đốt pháo. Các cửa
tiệm giảm giá và hứa quyên một nửa lợi nhuận để giúp đỡ Quân Giải phóng [6].
Trùng hợp là ngày Chủ nhật này còn là “Lễ hội các thánh tử đạo Việt-nam” của
Công giáo, tưởng niệm những người đã chết vì tín ngưỡng, đặc biệt vào thế kỉ
mười chín, thế là các nhà thờ ở Hà-nội buổi sáng đó tràn ngập người tham dự lễ
Misa. Trong một động thái được cố tình thiết kế nhằm nối kết Nhà thờ Việt-nam
với chính quyền mới, các linh mục sau đó đã dẫn đoàn con chiên của mình băng
qua các con phố để tới quảng trường [7]. Những nhà sư đứng
đầu ở mấy ngôi chùa cũng làm tương tự vậy. Các giáo viên trang bị còi hay loa
dẫn đầu đám trẻ con hát những bài ca cách mạng. Đám thanh niên đặc biệt chú ý
đến cách những lá quốc kì đỏ rực mà những nhóm thiếu nữ đang cầm tương phản với
những chiếc áo dài trắng tinh khôi.
Khi vào ngày 19
tháng Tám, trước đó hai ngày Chủ nhật, có rất nhiều nhóm người ở nông thôn đi
thành từng đoàn tới Hà-nội để tham dự, nhưng lần này nhiều người trong số họ
đến với tư cách những cộng đồng thôn làng, được dẫn dắt bởi những bậc lão thành
hay những người tổ chức bên Việt Minh, họ mặc áo dài khăn đóng theo truyền
thống, đôi khi hãnh diện mang theo những thanh đao nghi lễ và những cây gậy
bằng đồng từ mấy miếu thờ và nhà chùa địa phương. Những nhóm người dân tộc
thiểu số từ vùng đồi núi cũng hiện diện, họ đội mũ, đeo khăn có màu sắc sặc sỡ,
mặc váy và đeo khăn quàng vai [8]. Từ cái “lồng sơn son thiếp
vàng” trong Phủ Toàn quyền, Jean Sainteny, viên chức cao cấp của nước Pháp tự
do (Free France) có mặt ở Hà-nội, đã quan sát khi hàng chục ngàn người Việt-nam
đi thành từng hàng băng qua đại lộ Brière-de-l’Isle để tiến vào quảng trường.
Ông ngạc nhiên trước sự tham gia công khai của Công giáo và sửng sốt cảnh trật
tự của đám đông, không có bất kì hành vi gây rối nào. Không ai có cử chỉ thù
địch đối với ông ta hay đối với phủ [9].
Lá cờ Việt Minh
khổ lớn được treo lên cột cờ cao vút, vốn được dùng để đặt tên khu vực đó (Cột
cờ), trước đó vài tháng đã được Đốc lí Hà-nội Trần Văn Lai đổi tên lại thành
Quảng trường Ba Đình, nhằm tưởng nhớ đặc biệt đến cuộc phòng vệ ngoan cường
chống lại quân thực dân Pháp hồi năm 1886-1887. Người ta đặt một cái cồng và
một cái trống lớn bên dưới khán đài. Vấn đề an ninh cũng được suy xét đáng kể,
với đội quân danh dự của Quân Giải phóng đảm bảo không ai trong số khán thính
giả có thể tới gần khán đài trong phạm vi hai mươi mét, những công nhân và sinh
viên có trang bị vũ trang cũng được xếp đặt tại mọi góc của mấy khu vườn, và
một đơn vị tự vệ cảnh giác trước bất kì sự quấy rối nào từ hướng Thành [Hà-nội]
nơi quân Pháp vẫn còn bị Nhật giam giữ. Trước cuộc biểu tình, lính Nhật ở khu
đất thuộc Phủ Toàn quyền đã thiết lập mấy khẩu súng máy chĩa về quảng trường,
làm những nhà tổ chức phải đặt một bức màn người gồm những dân quân tự vệ với
chỉ thị thà chết còn hơn rút lui [10].
Mặc dù chương
trình được mong đợi bắt đầu vào đúng 2:00 chiều, nhưng xe hơi chở các thành
viên trong nội các Việt-nam Dân chủ Cộng hoà đã đến trễ hai mươi lăm phút khi
phải rẽ đường đi trong đám đông. Hồ Chí Minh dẫn đầu những người còn lại bước
nhanh lên khán đài, điều này làm ngạc nhiên nhiều người đứng xem vì họ mong chờ
những người cầm quyền sẽ di chuyển bằng phong thái từ tốn và trang nghiêm.
Trong khi hầu hết các đồng sự của ông trên khán đài đều mặc bộ vét Tây và thắt
cà-vạt, nhưng ông Hồ cố ý chọn mặc bộ đồ kaki phai màu với cổ cao và mang đôi
dép cao su trắng – những nhãn hiệu của ông với vai trò người đứng đầu nhà nước
trong hai mươi bốn năm tiếp theo [11]. Mặc dù loại áo cổ cao
bắt nguồn trong số những quan cai trị thực dân ở châu Á, nhưng nó còn mang biểu
tượng cách mạng ở Trung-quốc từ đầu những năm 1920. Có lẽ ông Hồ xem nó là một
thoả hiệp thích hợp giữa bộ đồ Tây với bộ áo dài đen, khăn đóng của giới nho sĩ
Việt-nam, vốn được xem là quá truyền thống trong những trường hợp thế này (và
hình như là ông Hồ chưa bao giờ mặc chúng kể từ năm 1911 trở về sau).
Sau lễ chào cờ
và hát quốc ca, Võ Nguyên Giáp, bộ trưởng bộ nội vụ, bước tới micrô giới thiệu
Hồ Chí Minh, người được chào mừng bằng những tiếng hô vang dội và được sắp xếp trước,
“Độc lập! Độc lập!” Ông Hồ vẫy tay trước khán thính giả trong vài phút, đoạn
nâng hai bàn tay lên để kêu mọi người im lặng. Bằng giọng đặc trưng tỉnh
Nghệ-an, ông Hồ lúc đó bắt đầu đọc Tuyên ngôn Độc lập [12]. Sau vài
câu ông ngừng lại chốc lát và hỏi người nghe, “Đồng bào có nghe rõ không?”
Tiếng gầm rống đáp lại, “Rõ!” và từ thời điểm đó trở đi có một mối liên kết đặc
biệt được hình thành [13]. Ông Giáp không hề bóp méo câu chuyện khi
nhiều năm sau đó ông viết rằng “Bác [Hồ] cùng với cả biển người đã hoà làm một”
[14]. Trần Trung Thành, một cán bộ tự vệ trẻ tuổi có nhiệm vụ canh
chừng mấy tay súng máy người Nhật, nhớ lại rằng, mặc dù chưa biết Hồ Chí Minh
chính xác là ai, nhưng những trao đổi ngôn lời đơn giản này đã làm anh xúc động
rớt nước mắt, và khiến anh tạo một khẩu hiệu đặc biệt trên tấm biểu ngữ như một
cam kết bản thân: “Độc lập hay là chết!” [15] Phần ghi âm của bài
diễn văn này, phải thừa nhận là do ông Hồ thực hiện một thập niên sau đó, và
không có lợi thế từ khán thính giả, đã bộc lộ một giọng nói chắc nịch, vang rền
với tài năng hùng biện hiển nhiên, ví dụ nhấn mạnh vào những từ đặc biệt hoặc
tận dụng những khoảng ngừng để tạo hiệu ứng kịch tính [16].
Chính bản Tuyên
ngôn, chỉ dài 760 chữ, được thiết kế để tạo giọng điệu chung của chính quyền để
dùng cho cả trong lẫn ngoài nước [17]. Cảm thấy lo âu khi liên kết
hiện tại của Việt-nam với những truyền thống cách mạng thế giới ở quá khứ, và
để cúi mình theo phép ngoại giao trước Washington và Paris, Hồ Chí Minh mở đầu
bằng câu trích dẫn từ Tuyên ngôn Độc lập Mĩ 1776, như đã đề cập trước đó, và
tiếp theo là đoạn văn trích từ Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền Pháp 1791.
Những lí tưởng về cuộc sống, tự do, hạnh phúc, và bình đẳng khi đó đều trở nên
tương phản rõ nét với hơn tám mươi năm thực hiện hành vi thực dân của người
Pháp – ông Hồ đặc biệt đề cập đến chuyện Việt-nam bị phân chia thành ba hệ
thống hành chính, việc giết hại hay cầm tù những người yêu nước, bán thuốc
phiện và rượu để “làm cho nòi giống ta suy nhược”, cưỡng đoạt đất đai và các
nguyên liệu thô, và đặt ra “hàng trăm thứ thuế vô lí”. Có những tiếng vang vọng
ở đây của lời thỉnh cầu ở Versailles năm 1919, cũng như của Le procès de la
colonisation française (Bản án chế độ thực dân Pháp) của ông Hồ năm 1925,
đối với rất ít người quen thuộc với những bản văn đó.
Đến với những sự
kiện cụ thể gần đây, Hồ Chí Minh khẳng định Pháp đã “bán” lãnh thổ Việt-nam cho
Nhật hai lần trong vòng năm năm qua, mặc dù Pháp đã khẳng định trách nhiệm “bảo
hộ”. Dân chúng trở nên nghèo khổ hơn, dẫn đến nạn đói khủng khiếp hồi đầu năm
đó khi mà “hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói”. Khi Nhật đầu hàng Đồng minh,
“nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền và lập nên nước Việt-nam Dân
chủ Cộng hoà” [18]. Cùng với việc Bảo Đại thoái vị, người dân
còn làm được chuyện lật đổ chế độ quân chủ tồn tại hàng mấy ngàn năm.
Khi dành hơn hai
phần ba bản Tuyên ngôn cho phần bài học lịch sử súc tích mà đầy màu sắc, Hồ Chí
Minh trong những đoạn văn cuối cùng đã chuyển sang những hoàn cảnh ngoại giao
trước mắt. Ông tuyên bố rằng Chính phủ lâm thời đã huỷ bỏ hết mọi hiệp ước do
Pháp kí đối phó với Việt-nam và bãi bỏ hết mọi đặc quyền của người Pháp. Ông
cảnh báo rằng người Việt “kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp”.
Có phần nào ai oán, ông Hồ kêu gọi phe Đồng minh công nhận quyền của người Việt
cho sự độc lập nước nhà trên tinh thần của những hội nghị Teheran và San
Francisco. Tuy nhiên, nếu họ không công nhận, thì những lời cuối cùng của ông
Hồ đã loan báo cho thế giới biết rằng trong bất kì trường hợp nào:
Nước Việt Nam có
quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn
thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của
cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.
Khi tiếng vỗ tay
và reo hò lắng xuống, Hồ Chí Minh giới thiệu từng bộ trưởng, và tất cả đều làm
lễ tuyên thệ nhậm chức. Võ Nguyên Giáp khi đó bước tới và đưa ra một tràng chú
giải đầy vẻ nghiêm trang cho bản Tuyên ngôn của chủ tịch [19]. Sau
đó, Trần Huy Liệu, bộ trưởng bộ thông tin và tuyên truyền, báo cáo trước khán
thính giả về buổi lễ thoái vị của Bảo Đại ở Huế ba ngày trước đó, và rồi trao
thanh kiếm hoàng gia và ấn cho Hồ Chí Minh. Là một diễn giả công chúng thiên
bẩm, Trần Huy Liệu dường như đã làm đám đông cười ồ lên và vỗ tay khi mô tả sự
cáo chung của chế độ quân chủ. Nhập vào tinh thần của sự việc, ông Hồ tuyên bố
rằng thanh kiếm, trước đây được dùng để đàn áp dân chúng, giờ đây sẽ được dùng
để “chặt đầu kẻ phản bội” [20]. Đại biểu cho Tổng bộ Việt Minh,
Nguyễn Lương Bằng sau đó nói ngắn gọn về nhu cầu thống nhất và đấu tranh, phát
biểu thẳng thừng rằng đánh Pháp là chuyện cần thiết [21]. Vào một
thời điểm nào đó giữa buổi lễ lúc chiều, hai chiếc Tia chớp P-38 của Mĩ sà
xuống thấp ngay trên đám đông, một sự kiện được tuyên bố ngay tức thì và
ai cũng tin là đại diện cho lời chào mừng được Mĩ sắp đặt đối với chính quyền
Việt-nam vừa mới chớm nở.
Mục cuối của
chương trình liên quan đến việc người dân lặp lại lời tuyên thệ long trọng cho
việc trung thành với Chính phủ lâm thời và với Chủ tịch Hồ Chí Minh, một lời
thề bảo toàn nền độc lập của tổ quốc, “thấm chí có dẫn đến hi sinh mạng sống
của chúng ta”, một lời hứa không giúp đỡ Pháp nếu họ quay trở lại xâm lược [23].
Về lưu ý cảnh báo cuối cùng, ông Hồ cầm micrô và tiên đoán: [24]
Chúng ta sẽ phải
trải qua nhiều khốn khó và đau khổ hơn nhiều. Đồng bào phải ủng hộ chính quyền,
để sau này có thêm nhiều buổi ăn mừng và thắng lợi!
Những nhóm người
có tổ chức ở quảng trường sau đó diễu hành ra phố, giải tán ở hồ Hoàn Kiếm, và
gia nhập vào bầu không khí vui chung cho đến giờ giới nghiêm [25].
Trở lại bản
Tuyên ngôn của Hồ Chí Minh, những gì ta có thể nói về vị thế của nó như một
“bản văn” khác với buổi lễ ngày 2 tháng Chín tại Hà-nội? Điều tôi thấy đáng chú
ý nhất là tính sắc sảo của bài văn, kết cấu chặt chẽ, không giả tạo. Gần như
không từ nào có thể được coi là dư thừa. Ví dụ điển hình nhất cho tính súc tích
là câu: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo đại thoái vị”. Nhiều sự kiện
chính trị đương thời, chất chứa nhiều ý nghĩa chính trị, được gói gọn trong
chín từ. Thực ra ông Hồ có thể giảm câu đó xuống còn tám từ, nhưng lại chọn
cách cho Bảo Đại có được danh tước bình dân bằng cách dùng từ vua, mặc
dù không phải tước hiệu chính thức của Hoàng đế. Lối tiếp cận giao tiếp
cô đọng này ngay tức thì gợi nên những tác phẩm kinh điển Trung-hoa thời Chiến
quốc, vốn là địa hạt rất quen thuộc đối với nhiều người Việt những năm 1940,
cùng một cách mà nhiều người Mĩ nhận ra nhiều đoạn trích ngắn từ Kinh Cựu ước.
Dĩ nhiên ông Hồ thời trẻ có đọc kinh điển Trung-hoa, và từ đầu thập niên 1940
đã thấy nó thật hữu dụng khi sử dụng vai trò của những người trí thức Khổng
giáo già nua ở một số dịp nhất định.
Dù vậy, ấn tượng
phong cách chung của Tuyên ngôn Độc lập là nó mang tính đương đại, chứ không
truyền thống. Hồ Chí Minh không chêm vào bất kì dòng thi ca nào, vốn là điều
thường được người ta mong chờ ở những diễn giả văn nhân. Những câu chữ gọn gàng
của ông có thể phần nhiều nhờ vào ba thập niên liên hệ với các bản văn xuôi
hiện đại của Pháp, Anh, và Nga, và nhờ vào sự nghiệp như một nhà hoạt động
chính trị và người dạy học ngầm ẩn, hơn là nhờ vào Tuân tử hay Mặc tử. Ông ấy
không rắc vào bài diễn văn của mình những thuật ngữ ngoại lai, vốn là điều
thường thấy ở giới trí thức Việt-nam ngày đó. Thay vì vậy, người ta cảm thấy
ảnh hưởng Tây phương ít trực tiếp hơn, khi tránh dùng quan hệ song song, lối
phát triển logic rõ ràng, tính chất thẳng thừng. Ở chỗ ông Hồ chọn cách thêm
vào chất hùng biện, dành ra một phần tư toàn bộ bài nói chuyện để công kích
những đặc điểm cụ thể của chế độ thực dân pháp, từ Chúng mang tính miệt thị
được cho vào mười bốn lần liên tục nhằm định danh những kẻ thực dân, ông ta rõ
ràng có được nguồn cảm hứng từ bản cáo trạng tư pháp kiểu Tây phương hoặc cụ
thể hơn là từ những lời cáo buộc chống lại Vua George III trong bản Tuyên ngôn
Mĩ, chứ không phải lối công kích kẻ thù của nhà vua nước Việt, lối tranh cãi
giữa các già làng, hay lối cãi nhau giữa chợ.
Cách tiếp cận
Tây phương này không thể làm khó chịu người nghe ở buổi biểu tình ngày 2 tháng
Chín hay những người đọc sau đó, bởi hai lẽ. Thứ nhất, tiếng Việt đã trải qua
những thay đổi quan trọng hồi thập niên 1920 và 1930, trong lúc Hồ Chí Minh
đang ở hải ngoại. Đã có sự tiêu giảm tương đối ở những lối dùng hoa mĩ, văn vẻ,
ít chú tâm hơn đến những nhịp điệu đều đều và lối hoà âm, hiệp vận. Ở chừng mực
nào đó những thuộc tính truyền thống này đã nhường lối cho tính chuẩn xác trong
cách biểu hiện và cú pháp logic [26]. Chúng ta không biết ông Hồ có
dịp đọc nhiều văn liệu tiếng Việt thời đó hay không trong lúc ngụ tại khối
Soviet và Trung-quốc, nhưng ông quả có thực hiện được mối tương tác với những
thanh niên lưu vong người Việt, và ông ta lúc nào cũng nhanh chóng lưu ý những
điểm tinh vi trong ngôn ngữ. Ngoài việc đó có lẽ chỉ là tình cờ khi có sự hội
tụ giữa trải nghiệm ngôn ngữ của ông Hồ ở hải ngoại với những đổi thay bên
trong đất nước.
Thứ nhì, Hồ Chí
Minh có sự lựa chọn thẳng thắn về từ vựng, không cố gắng giới thiệu thuật ngữ
lạ cũng như không có dấu hiệu gì cho thấy lên giọng kẻ cả với người nghe. Phải
thừa nhận là những từ như bình đẳng và lâm thời, hay ngay cả từ độc
lập và tự do, tất cả đều không phải cách diễn đạt truyền thống người
Việt, nhưng chúng đã bắt đầu được giới trí thức sử dụng lác đác từ hồi thập
niên đầu tiên của thế kỉ hai mươi, và cho đến thập niên 1940 thì đạt được mức
thịnh hành.
Khi quyết định
mở đầu bản Tuyên ngôn bằng những trích dẫn từ các bản văn 1776 và 1789, Hồ Chí
Minh không chỉ ngả mũ đối với Washington và Paris, mà quan trọng hơn là đặt
Việt-nam ngang hàng trong dòng cách mạng thế giới nối tiếp nhau. Mặc dù đề cập
đến cách mạng Bolshevik 1917 không mang tính chính trị, nhưng các thính giả có
học có thể tự mình rút ra kết luận.
Những đoạn dẫn
từ văn bản 1776 và 1789 cho phép ông Hồ có được cơ sở triết học cao cấp và cơ
sở luân lí về “quyền tự nhiên”, hoàn toàn tương phản với tính dã man và chế độ
nô lệ của thực dân Pháp. “Quyền tự nhiên” chỉ được tranh luận công khai giữa
những trí thức Việt từ cuối thập niên 1920, và ý tưởng này không có được gốc rễ
sâu xa. Chính ông Hồ cũng không theo đuổi chủ đề về những quyền tự do cá nhân ở
bên ngoài những trích dẫn ngoại quốc, thay vào đó lại chuyển tức thì sang quyền
tự nhiên cho các dân tộc. Có giả định mặc nhiên rằng những quyền tự do cá nhân
cần được trì hoãn lại cho đến khi đất nước Việt-nam lớn mạnh và an toàn trước
những mối đe doạ của nước ngoài. Trong lúc đó, mặc dù ông Hồ không nói điều
này, nhưng toàn thể người Việt đều rơi vào một trong hai loại: yêu nước hoặc
phản bội. Từ khoảng năm 1951, người dân càng lúc càng bị chia cách theo nguồn
gốc giai cấp cũng như theo mối quan hệ. Với tư cách một người hết lòng theo
Lenin, Hồ Chí Minh ủng hộ những phân loại giai cấp như thế, mâu thuẫn trực tiếp
với những khẳng định hồi năm 1945 của ông.
Những người đọc
cẩn trọng của bản Tuyên ngôn độc lập hẳn chú ý đến khác biệt tinh tế giữa những
điều Hồ Chí Minh nói dành cho người trong nước so với những điều dành cho ngoại
quốc. Với người Việt, nền độc lập là một sự kiện đã xong xuôi, phải được bảo vệ
hoàn toàn, không thoả hiệp. Đối với quân Đồng minh, bởi vì nền độc lập của
Việt-nam tương ứng với những gì các lãnh đạo Đồng minh đã cam kết tại các hội
nghị quốc tế, nên nó phải được công nhận. Nhấn mạnh của ông Hồ về tính chất lâm
thời của chính quyền ông ta do vậy không chỉ liên hệ với nhu cầu cần bầu cử
quốc gia và một bản hiến pháp, mà nó còn ra hiệu cho các chính quyền ngoại quốc
biết rằng ông ấy đã chuẩn bị thương thảo những thoả thuận dài hạn.
Hồ Chí Minh đã
mời thiếu tá Patti xuất hiện trên khán đài ở buổi lễ Độc lập chính thức, nhưng
Patti quyết định chọn cách tới cùng ba đồng đội OSS khác với tư cách người quan
sát, họ tự chọn chỗ đứng giữa những viên chức địa phương ở trước khán đài.
Trong khi lắng nghe người thông ngôn liên lạc của Việt Minh cung cấp phần dịch
tại chỗ về bài nói của ông Hồ, Patti quan sát phản ứng của đám đông, nhanh chóng
kết luận rằng ông Hồ “đã chạm được tới họ”. Khi được cung cấp sau đó vào buổi
chiều bản Tuyên ngôn tiếng Việt, Patti đảm bảo rằng nó sẽ được dịch và truyền
đi theo sóng radio tới Côn-minh. Bằng người đưa tin lên sóng, Patti bổ sung vào
những lí giải sống động của chính mình, ví dụ như mô tả bề ngoài ông Hồ là
“trán cao, mớ râu tóc bị cơn gió nhẹ thổi phất phơ, và ông ấy dùng lối truyền
tải mạnh mẽ đầy cảm xúc…” [27]. Trong khi cùng thời điểm đó
một số viên chức cấp cao hẳn đã nghĩ Patti đã “thành dân bản xứ” rồi, họ truyền
tin những báo cáo của ông lại một cách chính xác về cho giám đốc OSS tại
Washington, người đã sắp xếp để tóm lược lại chúng thành những bản thông báo
nội bộ để cho Ngoại trưởng chú ý tới, mà ông Ngoại trưởng vì có quá nhiều thứ
để đọc nên có thể đã hoàn toàn không biết đến những báo cáo đó.
Khi Jean
Sainteny có được những báo cáo chi tiết về những bài nói tại buổi biểu tình,
ông đã ghi chú cách Hồ Chí Minh giữ được đường lối ôn hoà hơn so với những đồng
chí của ông ta [29]. Ngày kế tiếp, một trong những trợ lí của
Sainteny bước hùng hổ vào tổng hành dinh của chính quyền lâm thời, nói chuyện
với ông Hồ và phụ tá của ông ấy về những vấn đề ngoại giao, và sau đó tỏ ra bị
thuyết phục rằng có thể đạt được thương lượng [30]. Sainteny tha
thiết mong muốn mở ra những cuộc bàn luận với ông Hồ, nhưng không thể nhận được
chỉ dẫn nào từ Paris. Khi các văn bản về những bài nói chuyện trong ngày lễ Độc
lập tới được Paris, thì dường như người ta đã bỏ mặc chúng. Vài tháng sau, một
phân tích tình báo đã mô tả phần nội dung một cách chế nhạo:
… một sự kết hợp
lai tạp giữa chủ nghĩa quốc tế theo sách vở và chủ nghĩa yêu nước kiểu sô-vanh,
một sự pha trộn giữa chủ nghĩa Marx trí thức và các nhu cầu xã hội nguyên thuỷ,
tương ứng chính xác với những khác vọng của một thành phần quần chúng ở những
vùng châu thổ Á châu này [31]
Thực tế thì
Paris rất ít lưu tâm đến các ý tưởng của Hồ Chí Minh hay Võ Nguyên Giáp so với
việc lưu tâm đến chuyện một lần nữa giành lấy ưu thế quyền lực ở Đông Dương,
sau chuyện đó mới có thể bắt đầu những thương thảo với những thành phần bản địa
tự nhận là đại diện cho thứ này hay thứ khác.
Một khi thương
lượng bắt đầu giữa Việt-nam Dân chủ Cộng hoà với Pháp, thì những bản cáo trạng
sống động, đầy cảm xúc của Hồ Chí Minh dành cho chế độ thực dân Pháp, chẳng hạn
như bản cáo trạng được trình bày trong Tuyên ngôn Độc lập, đã khiến cho thậm
chí những người tự do ở Pháp như Sainteny cũng phải nổi giận. Nghiêm trọng hơn,
thứ ngôn ngữ cứng nhắc như vậy đã mang lại tính hợp lệ cho thái độ thù địch của
quần chúng Việt-nam đối với lính và những thường dân Pháp, là những người quay
lại chịu kiểm soát của những hiệp ước mà ông Hồ là một phe thoả thuận. Ông Hồ
cố gắng giải quyết chuyện này với những phân biệt công khai giữa “những kẻ đế
quốc cũ” và những đại diện cho chính quyền Pháp hiện tại, nhưng những phân biệt
này thật khó để duy trì thực tế. Tới tháng Mười mộ năm 1946, cả hai bên đều trở
thành tù nhân của những cuộc đấu khẩu khoa trương hàng ngày của chính bản thân.
Xung đột toàn diện là điều không tránh khỏi.
Suốt nhiều thập
niên kể từ lúc Hồ Chí Minh đứng trên khán đài gỗ tạm bợ tại Hà-nội, bản Tuyên
ngôn Độc lập đã trở thành một biểu tượng quốc gia, với việc những em học sinh
ghi nhớ những đoạn văn trong đó, các nhà chính trị dùng nó liên tục như cái neo
giữ đầy thẩm quyền cho những công bố chính sách, các sử gia dẫn nó ra như điểm
mấu chốt giữa chế độ nô lệ thực dân và sự giải phóng thắng lợi. Ngày nay bản
Tuyên ngôn có thể là văn bản hợp thức hoá quan trọng nhất của nước Cộng hoà Xã
hội Chủ nghĩa Việt-nam, giúp cho việc giải thích tại sao hệ thống chính trị này
gần đây lại vượt qua được mọi cơn chấn động phát xuất từ Moskva. Dù vậy, rất ít
người Việt có thể đọc lại bản Tuyên ngôn nếu được hỏi tới (không như Truyện
Kiều hay những văn bản khác theo thể thơ vốn có độ dài khá đáng kể). Nó hiếm
khi được xuất bản trọn vẹn, và các viên chức Đảng Cộng sản đã cực kì phóng túng
ở cách thức họ biên tập lại hay thậm chí sửa đổi bản văn, chứ không đề cập đến
việc diễn giải nó theo cách thức làm sao phục vụ cho bản thân nhiều nhất [32].
Cho đến gần đây những điểm nhấn mạnh của bản Tuyên ngôn về cuộc sống, tự do,
hạnh phúc, và bình đẳng, cùng với nền độc lập quốc gia, hiếm khi được chú ý chi
tiết thậm chí bởi những cây bút không phải Cộng sản. Tuy nhiên, điều này đang
thay đổi khi giới trí thức tìm kiếm cách trình bày những lí tưởng về một xã hội
trong đó chủ nghĩa Marx-Lenin đã chết chỉ còn lại cái tên. Chỉ còn phải xem thử
bản Tuyên ngôn có phai nhạt đi cùng với ý hệ thống trị hiện nay hay vẫn giữ
được vị thế trong đài tưởng niệm yêu nước, cùng với những phát ngôn cổ xưa của
Lí Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, và Nguyễn Trãi.
Chú thích của
tác giả:
[1] Ngày 1 tháng
Chín, 1945. Nghị Định của Bộ Nội vụ, nằm trong Archives Nationales de France
(Kho lưu trữ Quốc gia Pháp), Phần Outre-Mer (Hải ngoại), Aix-en-Provence (từ
chỗ này về sau viết là AOM), INF, GF71. Nguyễn Khánh Toàn chủ biên, Tổng
tập Văn học Việt Nam, tập 36 (Hà-nội, 1980), trang 82, không đề cập đến
buổi họp nội các, thay vào đó khẳng định rằng Uỷ ban Thường trực thuộc Uỷ ban
Trung ương của Đảng Cộng sản Đông Dương gặp lần đầu tiên tại Hà-nội dưới sự chủ
toạ của Hồ Chí Minh, quyết định tổ chức buổi lễ giới thiệu chính quyền mới cho
người dân và trang trọng tuyên bố nền độc lập quốc gia. Tôi hồ nghi “buổi họp”
này chẳng qua chỉ là một chuỗi những cuộc hội đàm vội vã giữa ông Hồ, Trường
Chinh, và vài thành viên cao cấp khác của Đảng, vốn không có tác động gì tới
hành động của ông Hồ.
[2] Do hoạ sĩ
Văn Giáo vẽ, hoàn thành vào tháng Một năm 1973, được in trong Tổng tập,
đối diện trang 12, Nguyễn Khánh Toàn chủ biên.
[3] Archimedes
L. A. Patti, Why Viet Nam? Prelude to America’s Albatross (Berkeley,
University of California Press, 1980), trang 223-24. Tuy nhiên, những đoạn văn
khác trong hồi kí của Patti cho thấy ông thích làm người tham dự trong những sự
kiện cuồng nhiệt hồi cuối tháng Tám và tháng Chín tại Hà-nội; điều đó chắc chắn
là ấn tượng người Pháp có được, rất nhiều đối với sự cáu gắt của họ.
[4] Đại Việt Sử
Ký Toàn Thư (Tokyo, Tokyo Daigaku Toyo Bunka Kenkyujo Fuzoku Toyogaku Bunken
Senta, 1985), tập 1, trang 260. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Hà-nội: NHà xuất bản
Khoa học Xã hội, 1983), tập 1, trang 305. Thậm chí ở đây thì nhà vua
không thể nói trực tiếp với quân lính được, như văn bản đề cập nhà vua “xuống
chiếu”.
[5] Bàn luận với
Dương Trung Quốc, nhà nghiên cứu lâu năm của Viện Sử học, Hà-nội, ngày 12 tháng
Ba, 1990.
[6] Tung Hiệp,
“Hôm nay là ngày Độc Lập!”, Trung Bắc Chủ Nhật 261 (ngày 9 tháng Chín,
1945): 5-6.
[7] Nguyễn Mạnh
Hà, trong Đoàn Kết (Paris) 373 (tháng Chín, 1985): 20. Patti, Why
Viet Nam?, trang 248.
[8] Đoàn Kết
370 (tháng Năm năm 1985): 35. Võ Nguyên Giáp, Những Năm Tháng Không thể nào
quên (Hà-nội: Quân đội Nhân dân, 1970), trang 25-26.
[9] Jean
Sainteny, Histoire d’une paix manquée: Indochine 1945-1947 (Paris:
Amiot-Dumont, 1953), trang 92-93.
[10] Trần Trung
Thành, và những người khác, Hà Nội Chiến Đấu (Hà-nội: Quân đội Nhân dân,
1964), trang 17-19. Nguyễn Quyết, Hà Nội Tháng Tám (Hà-nội, Quân đội
Nhân dân, 1980), trang 185.
[11] Tung Hiệp,
“Hôm nay là ngày Độc Lập”, trang 23. Những bức hình cũng cho biết ông Hồ đội mũ
cam bạc, không như cái áo và đôi dép, ông chọn cách thay đổi mũ đội trong hơn
hai thập niên sau.
[12] Từ bức ảnh
trong Bùi Hữu Khánh, Hà Nội trong thời kỳ Cách Mạng Tháng 8 (Hà-nội,
1960). Nó cho thấy có người cầm dù che trên đầu ông Hồ trong lúc ông ấy đọc bản
Tuyên ngôn, có lẽ là một sự tiếp nối vô thức của truyền thống vương quyền.
[13] Nguyễn
Quyết, Hà Nội Tháng Tám, trang 187. Patti, Why Viet Nam?, trang
250.
[14] Võ Nguyên
Giáp, Những Năm Tháng, trang 28.
[15] Trần Trung
Thành, Hà Nội Chiến Đấu, trang 20.
[16] Bản ghi âm
này, hoàn tất tại các phòng thu thuộc Đài Phát thanh Hà Nội, được đưa vào trong
cuộn băng cassette kèm theo ấn bản sau: Từ Điển Hồ Chí Minh: Sơ Giản (Thành phố
Hồ Chí Minh, 1990). Giáo sư Trần Quốc Vượng cho biết có một người nước ngoài đã
cố thực hiện phần thu âm bài nói nguyên gốc, sau đó bản thu âm này rốt cuộc
xuất hiện tại Luân-đôn. Những người có thẩm quyền của Việt-nam Dân chủ Cộng hoà
nỗ lực mua lại nó vào năm 1954, nhưng lại thấy giá quá cao.
[17] Văn bản của
Tuyên ngôn được in thành bản luận bốn trang vào ngày 3 tháng Chín, sau đó in
trên tờ Cứu Quốc (Hà-nội) 6 (ngày 5 tháng Chín, 1945), và Cờ Giải Phóng
(Hà-nội) 16 (ngày 12 tháng Chín, 1945). Như được đề cập, những bản in sau này
và dễ tiếp cận hơn thì lại kém chính xác hơn. Các văn bản năm 1945 viết thêm
vào tên toàn bộ mười lăm thành niên nội các, cho thấy sự đồng thuận của chính
quyền chính thức, nhưng không nghi ngờ gì về việc Hồ Chí Minh là tác giả của
bản Tuyên ngôn. Bản dịch Anh ngữ đầu tiên được kèm vào cuốn sách nhỏ của Việt-nam
Dân chủ Cộng hoà cuối năm 1945 có nhan đề Documents, với bìa đỏ tươi
cộng ngôi sao vàng; bản sao có thể tìm thấy ở AOM, INF, GF 46. Đối với mắt
người nước ngoài, thì đất nước này có tên “Việt-nam Cộng hoà”, trừ đi từ “Dân
chủ”. Các bản dịch khác có thể tìm thấy ở: Harold R. Isaacs, chủ biên, New
Cycle in Asia (New York, 1947), trang 163-165; C. Kiriloff, dịch giả, Documents
of the August 1945 Revolution in Vietnam (Canberra, 1963), trang 66-70;
Gareth Porter, chủ biên, Vietnam: The Definitive Documentation of Human
Decisions, (New York, 1979), tập 1, trang 64-66; và tạp chí Khoa học Xã
hội Việt Nam (Hà-nội) 3 (1985): 145-147.
[18] Nó vẫn còn
phải được chứng minh chắc chắn rằng Hồ Chí Minh đã dùng từ “Dân chủ” trong bài
nói chuyện, mặc dù những bản in lại sau này có chứa từ đó. Trong bản dịch Anh
ngữ trong cuốn Documents như được dẫn ra bên trên, trong đoạn văn này ông ấy đề
cập đến “Chính quyền Cộng hoà hiện tại”.
[19] Porter, Definitive
Documentation, trang 660-71. Tập sách Documents, ở AOM, INF, GF 46.
[20] Trần Trung
Thành, Hà Nội Chiến Đấu, trang 20-21. Độc Lập (Hà-nội) số 1 như
được trích trong Vũ Ngự Chiêu, “Political and Social Changes in Viet Nam
between 1940 and 1946” (luận văn tiến sĩ, University of Wisconsin, 1984), trang
380-81.
[21] Nguyễn Văn
Tố, chủ biên, Chặt Xiềng (Hà-nội, 1960), trang 96-98.
[22] Sainteny, Histoire
d’une paix manquée, trang 93. Patti không đề cập đến sự kiện này trong cuốn
sách của mình nhưng nhớ lại nó rõ ràng khi được phỏng vấn trên đài phát thanh,
nhấn mạnh rằng việc bay ngang qua đó hoàn toàn là tình cờ. Xem Michael Charlton
và Anthony Moncrieff, Many Reasons Why: The American Involvement in Vietnam
(Middlesex, 1979), trang 13-14.
[23] Võ Nguyên
Giáp, Những Năm Tháng, trang 28-29. Trần Trung Thành, Hà Nội Chiến
Đấu, trang 21.Vũ Ngự Chiêu, “Political and Social Changes”, trang 381.
[24] Tung Hiệp,
“Hôm nay là ngày Độc Lập!”, trang 23.
[25] Patti, Why
Viet Nam?, trang 253. Tung Hiệp, “Hôm nay là ngày Độc Lập!”, trang 23-24.
[26] Điểm này
được nêu ra trong cuốn Hoàng Tuế, “Về Văn Bản Tuyên Ngôn Độc Lập”, trong Hồ
Chí Minh: Anh Hùng Giải Phóng Dân Tộc Danh Nhân Văn Hoá, chủ biên Vũ Khiêu
(Hà-nội, 1990), trang 324-25.
[27] Patti, Why
Viet Nam?, trang 249-52.
[28] Porter, Definitive
Documentation, trang 71-72.
[29] Sainteny, Histoire
d’une paix manquée, trang 92-93.
[30] François
Missoffe, Duel Rouge (Paris, 1977), trang 24-27. Sainteny, Histoire
d’une paix manquée, trang 96-97.
[31] “Le Viet
Minh”, báo cáo SDECE ngày 25 tháng Sáu, 1946, trang 40, trong AOM, INF, thùng
carton 138-139, tập tài liệu 1247.
[32] Trong một
bài viết gần đây, cựu giám đốc của Viện bảo tàng Cách mạng ở Hà-nội, Nguyễn
Thành, chỉ ra các bản in lại chính thức của bản Tuyên ngôn chứa đựng nhiều lỗi
khác nhau như thế nào, cũng có thể được thực hiện thông qua bản dịch tiếng nước
ngoài. Có lẽ điểm đáng kể nhất là sự thay đổi “Mọi người đều sinh ra bình đẳng”
thành “Mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng”, và khuynh hướng bỏ tên những
thành viên nội các được liệt kê bên dưới bản Tuyên ngôn. Nguyễn Thành, “Tìm lại
bản chính Tuyên Ngôn Độc Lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc ngày 2-9-1945”,
Tạp chí Cộng Sản (Hà-nội) 9 (1990): 73-76. Nhờ Frank Proschan mang lại
bài viết này để tôi có thể chú ý đến.
Duy Đoàn chuyển ngữ, Nguyễn Tiến Văn hiệu đính
Sài-gòn, 2013.06.14
Nguồn:
Marr, David G. (1995). Hồ Chí Minh’s Independence Declaration. Essays into Vietnamese Pasts.
K. W. Taylor & John K. Whitmore chủ biên. Cornell University
Press.
No comments:
Post a Comment