Saturday, September 28, 2019

Leigh Hunt - Cái chết của những đứa con nhỏ

Một nhà hiền triết Hi-lạp, khi được hỏi cớ sao ông lại khóc cho cái chết của con mình, bởi lẽ nỗi thống khổ ấy chỉ uổng công, đã đáp: “Tôi khóc chính vì duyên do đó.” Và câu trả lời trở thành lẽ minh trí của ông. Chỉ có hạng biện sĩ mới buông lời đoạn ngôn rằng chúng ta, với đôi mắt chứa cả nguồn châu lệ, không bao giờ cần nhượng lối cho chúng. Hẳn là thiếu minh trí khi không làm thế vào một số dịp nào đó. Nỗi thống khổ tháo mở chúng trong những lúc tâm trạng ấm nồng. Những cơn bùng lên đầu tiên có thể cay đắng và nặng lòng; nhưng mảnh đất mà tại đó chúng tuôn xuống hẳn sẽ xấu đi nếu thiếu chúng. Chúng làm tươi mát cơn nóng sốt của tâm hồn – nỗi sầu bi khô héo nó gây nứt nẻ dung nhan thành những luống cày, và khiến cho ta có thể bị “những cơn rung chuyển xác thịt” tệ hại nhất đời mình.
Có những nỗi thống khổ, thật vậy, rất lớn, đến mức nếu cho chúng mấy ngõ thoát hơi thường tình nào đó tức là ta sẽ lâm vào cảnh dễ bị lật nhào. Những nỗi này ta đúng hơn cần phải gia cường bản thân nhằm kháng lại, hoặc chịu khuất tòng mà lòng câm nín và vô cảm, để cho chúng vượt qua ta, như lữ khách vượt qua cơn gió sa mạc. Nhưng ở chỗ mà ta cảm thấy những giọt nước mắt sẽ làm ta nhẹ lòng, quả là thứ triết lí mê lầm nếu bản thân phủ nhận ngay cả luồng tươi mát ban đầu ấy; và quả là sự yên ủi mê lầm khi bảo với người đời rằng vì họ không thể ngăn được điều ấy, họ đừng nên bận lòng đến nó. Cách đúng đắn là, để họ tận lực đương đầu nỗi thống khổ vốn không sao tránh được, và cố lấy lí trí dằn lòng xuống để mà dỗ êm nỗi niềm ấy. Có những nỗi bi thương êm dịu trong chính bản chất của chúng đến mức sự tình hẳn là sẽ tồi tệ hơn cả cái kiểu cách anh hùng lầm lạc khi chối từ không nhỏ lệ cho chúng. Thuộc loại này là những cái chết của những đứa bé. Những trạng huống đặc biệt có thể khiến cho tình cảnh ít nhiều thích hợp cho việc buông lung mình trong cơn bi thương dành cho sự mất mát của một đứa con nhỏ; nhưng, nhìn chung, người ta đừng nên làm nữa cái chuyện khuyên bảo những bậc cha mẹ rằng họ cần kiềm nén những giọt lệ đầu tiên ở một cảnh như thế, chi bằng khuyên họ kiềm nén nụ cười của mình đối với đứa trẻ còn sống, hoặc khuyên họ buông mình theo bất kì niềm cảm thông nào khác. Đó là lối cầu trợ đến cùng một sự mềm yếu êm dịu; và những sự cầu trợ như thế không bao giờ được thực hiện hoài công. Mục đích của chúng là giúp ta được tha bổng khỏi những mối ràng buộc nghiêm khốc hơn do nỗi ưu phiền – thoát khỏi chuyện trói buộc cái tinh thần đó vào một ý niệm sầu bi.
Chính do bản chất của những giọt lệ loại này, nên dẫu cho chúng có thể tuôn tràn ra dữ dội đến đâu, kì cùng cũng sẽ chảy thành những dòng nước bình lặng. Ta đâu thể, trong cả đường đời mình, dễ dàng mang lòng đau mà nghĩ về bất kì người tốt và tử tế nào mà ta đã mất đi. Chính cái bản chất thiêng liêng nơi phẩm tính của họ là thứ chinh phục nỗi đau và bản thân cái chết; để biến kí ức về họ thành một niềm hoan khoái; để sống tiếp với mảnh bình yên nơi trí tưởng tượng trong ta. Chúng tôi lúc này đây đang viết ở chỗ ngay đối diện nơi chứa ngôi mộ của một người thân thương, đến đỗi không sao bày tỏ được, đối với chúng tôi. Từ cửa sổ chúng tôi thấy cây cối xung quanh nó, và ngọn tháp nhà thờ. Những cánh đồng xanh nằm quanh. Những đám mây trôi trên đầu, lúc này cất đi ánh nắng và lúc kia mang nó trở lại. Những ngọn gió xuân, kêu reo tiếng gọi mùa hè rợp hoa, dẫu vậy lại gợi nhớ đến vùng đại dương diêu viễn và đầy hiểm nguy, cái mà con tim trong ngôi mộ kia có nhiều nguyên do để nghĩ tới. Và tuy thế cảnh tượng của chốn này lại không khiến chúng tôi đớn đau. Trái lại, chính sự hiện hữu của ngôi mộ kia là thứ làm cho sức mê hoặc của chốn này tăng bội thêm; là thứ kết liên lại với nhau những niềm hoan khoái thời ấu thơ và thời trưởng thành của chúng tôi; là thứ đặt trong những ngọn gió một niềm đằm thắm dỗ dành, và đặt lên phong cảnh một niềm hân hoan điềm tĩnh; là thứ dường như hợp nhất cả trời và đất, cả sự tất tử và sự bất tử, cả bãi cỏ của nấm mồ và bãi cỏ nơi cánh đồng xanh; và làm cho toàn bộ lòng từ tâm của tự nhiên có được thêm hình bóng người mẹ. Bản thân nó không ngăn trở chính cái sự tươi vui. Hạnh phúc là thứ mà kẻ lưu náu trong đó, thông qua mọi sự đời phiền muộn của người ấy, hẳn sẽ loan truyền. Loan truyền hạnh phúc, và hân thưởng nó, không chỉ là chuyện truyền tải ước nguyện của người ấy, mà còn làm cho hi vọng của người ấy thành hiện thực; và sự tươi vui – vốn thoát khỏi những thứ ô uế đơn thuần, lòng tà tâm và không còn thiếu vắng lòng cảm thông – chỉ là một đứa trẻ đương chơi quẩn quanh hai đầu gối của người mẹ.
Sự thuần phác và những niềm thương mến của đứa trẻ mà ta ghi nhớ là thứ còn nương lại chỗ ta thay vì các đức hạnh vốn sẽ tiêu tan lúc già đi sau này. Trẻ con đâu có mang lấy lòng tự nguyện tỏ bày tinh thần hữu hảo; chúng đâu có chọn lối tỏ ra tử tế và ngoan đối với ta; cũng chẳng đứng về phía ta, bằng chính ý lực có nhận thức, trong giờ phút nghịch cảnh. Nhưng chúng có san sẻ với ta những niềm hoan khoái và những nỗi đau của chúng, trong chừng mực khả năng chúng làm được; sự trao nhận những hành vi thiện lành giữa chúng ta, một cách tất yếu, đã bớt phần hoà lẫn cùng những muộn phiền của thế gian; nỗi sầu đau dấy khởi từ cái chết của chúng là nỗi sầu đau duy nhất mà ta có thể liên hệ với những kí ức về chúng. Đây là những ý nghĩ hạnh phúc vốn chẳng thể nào tiêu tan. Sự mất mát của ta luôn có thể khiến chúng làm ta nặng lòng; nhưng chúng đâu phải lúc nào cũng đớn đau. Do là một phần trong tính hoà thiện của Tự nhiên mà nỗi đau không lưu tồn tựa như niềm hoan khoái, vào bất kì thời điểm nào, càng khó lưu tồn hơn khi mà duyên do cho nỗi đau ấy là từ một sinh mệnh thuần phác. Nụ cười ấy vẫn cứ phản chiếu lên trong kí ức, như mặt trăng phản chiếu ánh sáng lên chúng ta lúc mà mặt trời tiến vào cõi thiên đàng.
Khi những cây bút như chúng tôi đây lên tiếng kêu ca về nỗi đau phàm tục (chúng tôi ý nói những cây bút có cùng ý hướng, mà không ngụ ý, dĩ nhiên, bất kì điều gì về năng lực hay thứ chi khác), họ bị người ta hiểu lầm là liệu họ có cần phải lên tiếng kêu ca về các nỗi đau ở đủ mọi dạng loại. Đây hẳn là chuyện không ích chi và kiểu cách đàn bà. Quả thực họ không vờ rằng nhân loại đừng nên nguyện ước, nếu có thể làm vậy, mình hoàn toàn thoát được nỗi đau; bởi lẽ người đời gắng công, luôn luôn, muốn biến nỗi đau thành niềm hoan khoái: hoặc ít nhất tô điểm cái này bằng cái kia, để biến cái đầu tiên thành một thứ hương vị, và cái sau thành một thứ bồi đắp tinh lực. Cái phẩm giá thuần hậu của nỗi thống khổ là thứ thực hiện việc này, và, nếu đủ lẽ minh trí, sẽ nhìn nhận nó. Lòng từ ái vô ngần hướng đến kẻ khác, vốn là việc buông tính vị kỉ để mà hưởng lấy những niềm hoan khoái, ngay cả khi phải đổi lấy cái giá nào đó, quả là chỉ tìm cách gia tăng cái tàng khố hạnh phúc của người đời, dẫu vậy lòng từ ái đó lại bằng lòng, nếu có thể, để cho đặc tính của nó bị nuốt trọn trong dòng suy tưởng trứ tuyệt như thế. Chúng tôi xa cách với cái ý bảo rằng nó nên được gọi là sự ích kỉ. Quả thực, chúng tôi ở cách rất xa ý nghĩ như vậy, hoặc là ý nghĩ về những chữ gây hoang mang như vậy. Nhưng nó cũng không nên được gọi là nỗi đau lúc nó mang tính bất vị kỉ nhất, nếu mà sự không quan tâm có được là do lòng thấu hiểu thực sự. Nỗi đau mà ở trong đó sẽ êm lại thành niềm hoan khoái, tựa hồ sắc thẫm của cầu vồng hoà tan ra thành sắc tươi. Tuy thế dẫu cho một đường ranh gắt gao hơn được vạch ra giữa nỗi đau và niềm hoan khoái của tâm trí bất vị kỉ nhất hạng (và thể trạng hư nhược, chẳng hạn vậy, có thể vạch ra đường ranh đó), thì ta cũng không nên cự cãi liệu nó có góp phần vào cảnh thư thích vô ngần nơi người đời, và liệu nó có thuộc về một bản chất mà lòng từ tâm của người đời không thể tránh được. Như bản thân ta, có những nỗi đau nhất định mà nếu thiếu thì thật khó lòng mường tượng những niềm hoan khoái lớn lao và dễ làm ta chao đảo. Ta có thể mường tượng rằng các sinh thể khả dĩ được làm cho hạnh phúc hoàn toàn; nhưng trong kết cấu của ta thì một thứ thuộc nỗi đau có vẻ là một thành tố cần yếu, để cho những vật chất có thể trở thành ưu thế tinh hảo nhất có thể, mặc dù chất liệu đất sét của ta, trải qua bao tháng năm và kinh nghiệm, có thể càng ngày càng được tinh luyện hơn. Ta có thể rũ bỏ phần đất xấu nhất, dù không phải bỏ hết cái chất liệu đất ấy.
Giờ đây cái tình cảnh chịu mất đi mấy đứa nhỏ—hay đúng hơn cái khiến ta ý thức được điều đó, cái sự mất mát đôi lúc xảy ra ấy—dường như là một trong những thức đắng cần yếu được rót vào chén nhân gian. Ta không có ý rằng mọi người cần phải mất đi một trong những đứa con của mình để hân thưởng những đứa còn lại, hoặc mọi mất mát cá nhân đều gây khổ não cho ta theo cùng một tỉ lệ. Nhìn chung ta tránh đi những cái chết của những đứa bé thơ. Những cái chết này có thể hiếm hoi theo mức ta có thể bày tỏ ra. Nhưng nếu không cái nào từng xảy ra, ta có thể xem mọi đứa nhỏ như một người đàn ông hay đàn bà được đùm bọc; và thật dễ hình dung đâu là một thế giới của những chăm lo và hi vọng trìu mến mà sự đùm bọc này sẽ gây nguy hại. Chính cái ý niệm về thuở ấu niên sẽ mất đi tính liên tục với ta. Các cô bé và cậu bé sẽ là những người đàn ông và đàn bà trong tương lai, không phải những đứa trẻ ở hiện tại. Chúng hẳn sẽ đến được lúc trưởng thành hoàn toàn trong trí tưởng tượng của ta, và cũng có thể là đàn ông và đàn bà ngay tức thì. Mặt khác, những người mất đi một đứa bé thơ, xét ra, thì không bao giờ thiếu đi một đứa con bé thơ. Họ là những người duy nhất mà, theo một nghĩa, giữ được điều đó luôn luôn, và họ mang đến cho láng giềng họ cùng một ý niệm như vậy. Những đứa trẻ khác lớn lên thành đàn ông và đàn bà, và lãnh chịu thảy mọi sự đổi thay của người đời. Chỉ mỗi đứa này được biến thành một đứa trẻ bất tử. Cái chết đã tóm lấy nó bằng bao sự hà khắc từ tâm, và khiến nó có phúc phần trở thành hình ảnh vĩnh hẳng cho hoa niên và sự thuần phác.
Thuộc về những đứa trẻ thế này là những hình hài thân thương nhất vốn ghé lại nơi tâm tưởng và hi vọng của ta. Chúng luôn là những hình ảnh miệng luôn cười vốn tượng trưng cho niềm hân hoan; những trang giấy đẹp nhất vốn nán lại ở trí tưởng tượng. Sau cùng, “Thuộc về những đứa trẻ này là vương quốc thiên đàng”. Bất kể đâu có một xứ vương quốc nhân từ đến thế và ai ai cũng vào được, bất kể trên trái đất hay ở nơi khác, đó là những linh hồn hiền hoà hẳn phải ngụ tại xứ ấy. Đến mức giản đơn như thế, hoặc tương tự vậy, là điều hẳn chúng đạt tới được. Như thế hẳn phải là lòng tự tin sẵn sàng nơi tâm can chúng và sự sáng tạo nơi tâm tưởng. Và chúng hẳn vô tri trước “nhận biết về thiện và ác”, đánh mất đi khả năng biện biệt cái vấn đề tự gây ra đó, bằng cách hân thưởng khu vườn trước mặt chúng, và không lấy làm hổ thẹn về cái từ tâm và thuần phác.

Đoàn Duy chuyển ngữ
Sài-gòn, 2019.09.28

Nguồn:
Hunt, Leigh; (1887). Deaths of Little Children. Essays by Leigh Hunt. Walter Scott.
Bản online: https://www.bartleby.com/27/19.html


No comments:

Post a Comment