Monday, June 17, 2013
Tanizaki Jun'ichirō – Chuyện nhà vệ sinh Nhật-bản
Sunday, June 16, 2013
Shawn McHale - In ấn và quyền lực: Những tranh luận Việt nam về địa vị của đàn bà trong xã hội, 1918–1934
Những
người nghiên cứu về lịch sử Việt nam quen thuộc với sáo ngữ rằng đàn bà Việt
hưởng quyền lực nhiều hơn những người tương ứng Trung quốc của họ. Tuy nhiên,
các học giả đã ít phân tích những văn bản viết về hoặc do đàn bà trong thời kì
thuộc địa và sản xuất ra ít bản nghiên cứu lịch sử về đàn bà Việt. Tiểu luận
của tôi xem xét cung cách mà đàn ông và đàn bà thuộc giới ưu tú bắt đầu tưởng
tượng lại địa vị của đàn bà trong xã hội, và cứu xét vai trò mà một nền văn hoá
in ấn hiện xuất đảm nhiệm trong sự tái quan niệm này. Tôi tập trung vào những tranh
luận về sự bình đẳng của đàn bà và sự giải phóng của đàn bà đã xảy ra giữa hai
cuộc thế chiến.[1]
Trọng tâm bài tiểu luận của tôi sẽ là một sự so sánh của một tập hợp những văn viết xuất hiện trên tờ Nữ giới chung [Tiếng chuông cho đàn bà] vào năm 1918 cùng với một tập hợp khác được công bố trên tờ Phụ nữ tân văn [Báo đàn bà] trong đầu thập niên 1930. Năm 1918, những người viết trên Nữ giới chung đã đề cập tới nam nữ bình quyền trong khuôn khổ của sự hợp tác Pháp-Việt. Tới thập niên 1930, những người viết báo thuộcPhụ nữ tân văn đã theo một lập trường mang tính hoạt động xã hội hơn và dấn thân vào những cuộc tranh luận sôi nổi về việc giải phóng phụ nữ. Họ bác bỏ một thái độ hợp tác dễ dãi và đôi lúc chất vấn những định chế cơ bản, như gia đình, và những giá trị Nho giáo mà qua đó những định chế này đã được hiểu. Sự xuất hiện của mỗi tập hợp các bài báo bị phân cách khoảng mười lăm năm, tuy vậy một thay đổi lớn lao thì hiển nhiên trong những tri giác của giới ưu tú về vai trò của đàn bà trong xã hội.
Friday, June 14, 2013
David G. Marr - Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh
Nói về mặt chính trị, Tuyên ngôn Độc lập do Hồ Chí Minh đọc trước đám đông ở Hà-nội vào ngày 2/9/1945 là một trong những văn bản quan trọng nhất trong lịch sử Việt-nam thời hiện đại. Đối với nhiều người thì nó biểu trưng cho hồi cáo chung của sự cai trị ngoại quốc, mặc dù chuyện này còn cần đến chín năm thử thách bằng máu lửa. Chắc chắn nó đánh dấu việc thành lập nước Việt-nam Dân chủ Cộng hoà (VNDCCH), tiền thân của hệ thống nhà nước ngày nay, mặc dù ông Hồ đã cẩn trọng gọi tên chính quyền của mình là lâm thời, đợi tổng tuyển cử cả nước và ban hành hiến pháp.
Cơ bản hơn thì bản Tuyên ngôn chứa đựng một thế giới quan đầy kịch tính, một lịch sử cô đặc, một vài khẳng định táo bạo, những cụm từ sinh động, và hình tượng đầy cảm xúc – tất thảy những điều này nhằm cố gắng thu hút trí tưởng tượng của trước tiên là những khán thính giả trực tiếp trong số hàng mấy trăm ngàn người, và sau đó là của hàng triệu người Việt-nam khi họ nghe lại bài đọc đó hoặc đọc nó trên báo chí. Cùng với hình ảnh trực quan của một quý ông mảnh khảnh lúc tuyên bố độc lập cho Việt-nam sau tám mươi năm chịu ách nô dịch, những điều Hồ Chí Minh nói với người dân ngày ấy đã giúp tiếp nhiên liệu tranh đấu sau đó chống trước tiên là việc quay lại của người Pháp, và tiếp sau là người Mĩ. Mỉa mai thay, tuy những phần then chốt trong bản Tuyên ngôn không nhắm trực tiếp đến người Việt mà nhắm đến người nước ngoài nhưng lại bị phần lớn những thành phần được nhắm tới đó làm lơ đi.