Có một số người cho rằng văn ‘hay’ thì thực sự không thể dịch được. Trước khi biết đọc tiếng Đức, tôi nhận thấy ý nghĩ này an ủi làm sao vì tôi hoàn toàn không thể cảm nhận được văn học Đức, đặc biệt là văn học giai đoạn hậu chiến. Tôi đã nghĩ tôi nên học ngay tiếng Đức và đọc những tác phẩm này trong bản gốc và rồi vấn đề của tôi với văn học Đức có thể sẽ tự tan biến.
Dù vậy, có những ngoại lệ, như những bài thơ của Paul Celan,
mà tôi phát hiện thấy hoàn toàn lôi cuốn ngay cả trong bản dịch tiếng Nhật. Hết
lúc này tới lúc khác nảy ra trong tôi ý thắc mắc có thể nào những bài thơ của
ông lại không kém chất lượng bởi chúng thuộc loại khả dịch. Khi thắc mắc về
‘tính khả dịch’ của một tác phẩm, tôi không định nói rằng một bản sao hoàn hảo
của một bài thơ có thể tồn tại trong một ngoại ngữ hay không, mà là bản dịch của
nó có thể tự mình là một tác phẩm văn học hay không. Bên cạnh đó, sẽ là thiếu
sót nếu tôi chỉ nói rằng những bài thơ của Celan là khả dịch. Đúng hơn,
tôi có cảm giác rằng chúng đang chăm chú nhìn vào tiếng Nhật.
Sau khi tôi học đọc được văn học Đức trong nguyên gốc, tôi nhận ra rằng ấn tượng của mình chưa từng hão huyền. Tôi đã bị chiếm ngự còn hơn trước đó bởi câu hỏi vì sao những bài thơ của Celan có thể vươn tới một thế giới khác vốn nằm ngoài tiếng Đức. Đó hẳn phải có một vực sâu giữa những ngôn ngữ mà tất cả từ ngữ sa vào.
Một câu trả lời khả dĩ cho câu hỏi của tôi đến với tôi sau
này một cách đầy bất ngờ. Một hôm Klaus-Rüdiger Wöhrmann gọi điện thoại cảm ơn
tôi vì bản sao ông đã nhờ tôi làm giúp. Đó là một bản sao bản dịch tiếng Nhật tập
thơ Von Schwelle zu Schwelle [Từ ngưỡng tới ngưỡng] của Celan. Người dịch
tập thơ là Mitsuo Iiyoshi, qua bản tiếng Nhật của ông mà tôi được làm quen với
văn bản của Celan. Khi Wöhrmann nói với tôi rằng bộ-thủ ‘môn’ 門 [cửa] [‘tor’ trong tiếng
Đức, ‘gate’ hay ‘gateway’ trong tiếng Anh] đóng vai trò quyết định trong bản dịch
này, một ý tưởng loé qua đầu tôi: Chính xác bộ-thủ này đã thể hiện ‘tính khả dịch’
của văn chương Celan.
Một bộ-thủ là cái gì đó giống như ‘thành phần chính’ của một
chữ tượng hình [một chữ tượng hình là một kí hiệu được viết ra biểu hiện toàn bộ
một khái niệm hơn là một âm như một kí tự của bảng chữ cái]. Cũng có những chữ
tượng hình chỉ là một bộ-thủ, ví dụ ‘môn’ 門, nhưng hầu hết chúng đều có những
thành phần bổ sung. Mọi chữ có chứa bộ-thủ ‘môn’ đều có gì đó liên quan đến
khái niệm ‘môn’ trên một cấp độ ngữ nghĩa. Chắc chắn rằng, ý nghĩa của bộ-thủ
và chữ tượng hình với tư cách là một tổng thể đôi khi khác biệt so với một chữ
khác đến nỗi mối kết nối không thể được nhận ra nếu không có sự trợ giúp của tự
điển. Và khi đang đọc, bạn không suy nghĩ về ý nghĩa từng thành phần riêng lẻ của
từng chữ mà nắm bắt toàn bộ kí hiệu như một chỉnh thể. Vì lí do này, điều chưa từng
xảy đến với tôi là suy nghĩ về vai trò của một bộ-thủ trong tác phẩm của Celan.
Chỉ cái nhìn chăm chú thông suốt đến từ bên ngoài mới có thể thu hút sự chú ý của
tôi dành cho điều này.
Nhưng có thể nào trong tập thơ mỏng này, những chữ tượng hình
sử dụng bộ-thủ ‘môn’ lại liên tục xuất hiện ở những giao điểm then chốt nhất
này? Đây không thể là một sự trùng hợp được, dù những trùng hợp có thể tồn tại
trong văn học, nhưng không phải trong sự đọc một tác phẩm văn học. Thắc mắc về
ý định của tác giả không giúp được gì cho chúng ta: Không thể nào Celan lại bí
mật học tiếng Nhật và đã cố ý viết theo lối mà trong bản dịch tiếng Nhật bộ-thủ
‘môn’ sẽ trở thành một kí hiệu chủ chốt.
Bộ-thủ ‘môn’ xuất hiện hai lần trong nhan đề tập thơ Von
Schwelle zu Schwelle. Chữ ‘quắc’ 閾 [‘schwelle’ hay ‘ngưỡng’] có chứa bộ-thủ ‘môn’. Trong trường
hợp này không khó để đoán được nền tảng chung giữa ý nghĩa của bộ-thủ và ý
nghĩa của kí hiệu như một tổng thể. Cả hai trường hợp đều dính líu tới một ranh
giới. Nhưng ngay nhan đề này đã cho thấy rằng một giao điểm của những ranh giới
là không được chủ định: vấn đề không phải là về vượt qua một ranh giới đặc thù
mà là về lang thang từ một ranh giới đến ranh giới khác.
Trong bài thơ đầu của tập thơ, một chữ tượng hình chứa bộ-thủ
‘môn’ nữa xuất hiện: ‘văn’ 聞. ‘Ich Hörte Sagen’ [‘Tôi nghe nói’] là nhan đề bài thơ
này, bắt đầu với câu:
Ich
hörte sagen, es sei
im
Wasser ein Stein und ein Kreis
und
über dem Wasser ein Wort,
das
den Kreis um den Stein legt.
I
heard it said there was
a
stone in the water and a circle
and
above the water a word
that
placed the circle around the stone.
[Tôi
nghe nói có
một
viên đá trong nước và một vòng tròn
và
bên trên nước một từ
đặt vòng tròn quanh viên đá.]
Trong
kí hiệu ‘nghe’ 聞 [văn], bạn thấy một cái ‘tai’ 耳 [nhĩ] bên dưới cái ‘cổng’ 門 [môn]. Theo kí hiệu này,
nghe nghĩa là đứng ở ngưỡng cổng giống như một cái tai. Trong đoạn thơ kế tiếp
‘tôi’ thấy một hình dáng khác không còn đứng ở ngưỡng cổng nữa mà sải bước băng
qua nó:
Ich
sah meine Pappel hinabgehn zum Wasser,
ich
sah, wie ihr Arm hinuntergriff in die Tiefe,
ich
sah ihre Wurzeln gen Himmel um Nacht flehn.
I
saw my poplar go down to the water
I
saw how its arm reached down into the depths
I
saw its roots pleading skywards for night.
[Tôi
thấy cây dương của mình đi xuống nước
tôi
thấy cánh tay nó vươn xuống đáy ra sao
tôi
thấy rễ nó hướng lên trời cầu xin đêm.]
Thế
giới ở dưới nước là sau ngưỡng. ‘Tôi’ trong bài thơ thấy ‘cây dương’ nhúng sâu
vào thế giới không thân thuộc của nước ra sao, nhưng ‘tôi’ vẫn là một kẻ quan
sát và không vội theo nó.
Ich
eilt ihr nicht nach,
ich
las nur vom Boden auf jene Krume,
die
deines Auges Gestalt hat und Adel,
ich
nahm dir die Kette der Sprüche vom Hals
und
säumte mit ihr den Tisch, wo die Krume nun lag.
I
didn’t hurry after it,
I
merely gathered from the ground the crumb
that
has the shape of your eye and nobility
I
took the chain made of proverbs from your neck
and
draped it about the table where the crumb now lay.
[Tôi
đã không vội theo nó,
tôi
chỉ lượm lặt trên đất mảnh vụn
mang
hình dáng mắt em thanh cao
tôi
lấy xâu chuỗi làm bằng những cách ngôn từ cổ em
và
choàng nó quanh bàn nơi mảnh vụn giờ nằm.]
‘Tôi’
không đi xuống nước nhưng vẫn ở ngưỡng đeo đuổi một trò chơi kì ảo: Viên đá và
vòng tròn được sao lại với sự trợ giúp của ‘mảnh vụn’ và ‘xâu chuỗi’ và như vậy
hình ảnh nói đến hiển hiện bên dưới nước được lặp lại ở trên bàn.
Trò chơi kì ảo này có hiệu ứng của một tiến trình phiên dịch.
Người dịch sao lại hình ảnh tồn tại bên dưới nước trên bàn viết. Cây dương, mặt
khác, lại không phải là một người dịch. Hình hài của nó biến mất trong nước.
Nếu người ta đánh đồng thế giới không thân thuộc bên dưới nước
với lãnh địa của những người chết, thì trò chơi kì ảo này có thể là một bản dịch
ngôn ngữ của người chết thành văn. Người dịch nghe thấy lời người chết và đọc
nó [y có lượm lặt nó – auflesen – như lượm những mầm sống từ mặt đất hay
đọc nó – lesen – như đọc một chữ viết hay không?] và đặt nó trên bàn viết,
nói cách khác là y viết. Cây dương mặt khác lại không hề viết. Nó tan biến dưới
nước như một người nữ đang chết dần: Und sah meine Pappel nicht mehr
[‘Và không thấy lại cây dương nữa’].
Sự nghe đóng một vai trò quan trọng xuyên suốt chuỗi thơ đầu
trong tập thơ này, được đặt nhan đề là ‘Sieben Rosen Spater’ [‘Bảy Bông hồng
Sau’]. Với tôi nó hiện ra như thể tất cả những bài thơ này đang nhắc nhở tôi rằng
sự nghe không thể được suy ngẫm tách rời khỏi một ngưỡng. Đây là điều tôi đã hiểu
ra khi tôi đang còn sống chuyên biệt bên trong tiếng Nhật. Chữ tượng hình ‘văn’
聞 [nghe] nắm bắt được tri
thức này mà không cần cái ý thức của tôi về nó. Có một câu nói có lẽ cũng thuộc
về tri thức này. Đó là: Monzen no kozoo narawanu kyoo o yomu [‘Cậu bé sống
trước cửa một ngôi đền có thể đọc thuộc lòng lời kinh mà không cần học’]. Với
tôi, cậu bé người không vào bên trong ngôi đền và vẫn đứng ở cổng là hiện thân
của người đang nghe. Nhưng giờ tôi đã bắt đầu tư duy theo tiếng Đức khá thường
xuyên, tôi thường liên kết động từ ‘nghe’ [‘hören’] với ‘thuộc về’
[‘zugehören’] đến nỗi khi nghe điều gì đó tôi lại cảm thấy cần vội theo một tiếng
nói không thân quen và không đứng nguyên ở ngưỡng cổng.
Càng cao độ tập trung đọc, ấn tượng của tôi rằng những bài
thơ của Celan đang chăm chú nhìn vào tiếng Nhật càng trở nên mạnh hơn. Nhà thơ hẳn
phải cảm thấy được cái nhìn chăm chú của bản dịch ném từ tương lai lên văn bản
gốc. Thú vị thay, không thể giải thích được khả năng nhận biết cái chìn chăm
chú này của Celan bằng cách viện dẫn kiến thức của ông về tiếng Nhật. Chắc chắn
phải có một năng lực kêu gọi một hay một số hệ thống tư duy thuộc ngôn ngữ khác
trong tiến trình viết vốn nằm ngoài cái ngôn ngữ đặc thù được sử dụng [trong
trường hợp này là hệ thống chữ tượng hình Trung-hoa như được bảo tồn đến nay
trong tiếng Nhật, chẳng hạn] và năng lực khiến cho sự hiện diện của chúng được
cảm nhận trong văn bản.
Nhan đề bài thơ thứ ba, ‘Leuchten’ [‘Bóng thoáng’] chứa chữ
tượng hình ‘thiểm’ 閃 [thoáng], vốn cũng bao gồm bộ-thủ ‘môn’. Ở đây chúng ta
thấy một ‘người’ 人 [nhân] đang đứng bên dưới một cái ‘cổng’ 門 [môn]. Tôi chưa từng
thôi nghĩ ngợi làm sao sự kết hợp của một cái cổng và một con người lại có thể
sinh ra một bóng thoáng hay bừng sáng. Có lẽ ai đó đứng dưới một cái cổng [hay ở
một ngưỡng] sẽ đặc thù dễ đón nhận một bóng thoáng từ một cõi vô hình. [Ý tưởng
này đã được xác nhận khi tôi tiếp tục đọc.]
Cần nói thêm rằng tôi cảm nhận được điều gì đó kết nối mạnh mẽ
từ leuchten [‘bóng thoáng’] trong tiếng Đức với chữ tượng hình này: Nó
gây ấn tượng cho tôi rằng từ ich [‘tôi’] xuất hiện gọn ghẽ ngay giữa từ tiếng Đức
leuchten khi bạn đọc rõ nó lên. Từ ich tuy nhiên không xuất hiện
trong bài thơ này, chỉ có mir [‘với tôi’], du [‘em’] và uns
[‘với chúng ta’]. Chỉ trong bóng thoáng này ‘tôi’ mới xuất hiện trong một loé
chớp nhanh, trong một khoảnh khắc chóng vánh, bị phân mảnh.
Nếu tôi hình dung một bài thơ như một máy thu tia sáng, sẽ trở
nên vô nghĩa khi đi tìm cái gì đó ‘đặc trưng Đức’ trong một bài thơ tiếng Đức.
Vì những gì nó thu nhặt luôn ngoài nó và không bao giờ là bản thân bài thơ. Có
lẽ cũng có một số bài thơ tiếng Đức được làm bằng thổ nhưỡng Đức. Nhưng những
bài thơ cuốn hút tôi nhất là những bài tương ứng với những tinh tú của các ngoại
ngữ và những lối nghĩ rằng chúng trước đây chưa từng hội ngộ ngay lúc chúng được
sáng tác. Ở đây tôi đang diễn tả những hệ thống tư duy thuộc ngôn ngữ khác như
những tinh tú vì mỗi kí hiệu bên trong chúng cũng giống như một ngôi sao chiếu
ánh sáng của nó lên bản gốc. Khi đọc bài thơ ‘Strähne’ [‘Những lọn tóc’], bạn
có thể hình dung rằng trong khi miệng một nhà thơ có thể chứa đựng cát đất, thì
những từ ngữ của y lại không thể. Cái miệng này cảm giác được ánh sao và nói
lên những lời lẽ khác với ngôn ngữ thân quen.
Niedergehn
hier die Fernen,
und
du,
ein
flockiger Haarstern,
schneist
hier herab
und
rührst an den erdigen Mund.
Going
down here the distant ones,
and
you,
flake-like,
a hairy star
are
snowing down here
and
touching the earthen mouth.
[Xuống
đây đi những tinh tú xa xôi,
và
em,
như
đóm loé, một ngôi sao toả sáng
đang mưa tuyết nơi này
và
chạm vào miệng đất.]
Tia sáng từ ngôi sao vẫn chưa hiển hiện ở đây. Chưa cho tới
khi người dịch đến ban cho tia sáng một hình thể để cuối cùng nó trở nên hữu
hình. Nhưng làm sao tiến trình này lại có thể được thấu hiểu một cách tạm thời?
Thời gian ví sẽ ra sao trong đó bản dịch có thể rọi những tia sáng của nó lên bản
gốc? Trong dòng đầu của bài thơ thứ năm ‘Mit Äxten Spielend’ [‘Chơi với rìu’], từ
stunden [‘hours’ | ‘những giờ’] xuất hiện, bản dịch của nó một lần nữa sử
dụng một chữ tượng hình có chứa bộ-thủ ‘môn’. Từ hour 時間 [thời gian] được ghép bởi
‘thời’ 時và ‘gian’ 間 [khoảng không ở giữa]. Trong kí
hiệu thứ hai 間 [gian], một người nhìn thấy ‘mặt trời’ 日 [nhật] bên dưới một cái ‘cổng’
門 [môn]. Trong thể trước
đây của kí hiệu này, đó là mặt trăng chứ không phải mặt trời bên dưới cái cổng.
Ánh trăng chiếu xuyên qua khe cổng mở hé: Đó là cách người ta hình dung một khoảng
không ở giữa ngay lúc ấy.
Sieben
Stunden der Nacht, sieben Jahre des Wachens:
mit
Äxten spielend,
liegst
du im Schatten aufgerichteter Leichen
–o
Bäume, die du nicht fällst! –,
zu
Häupten den Prunk des Verschwiegenen,
den
Bettel der Worte zu Füßen,
liegst
du und spielst mit den Äxten –
und
endlich blinkst du wie sie.
Seven
hours of night, seven years of waking:
playing
with axes,
you
lie in the shadow of propped-up corpses
–o
trees that you do not fell!,–
at
your head the pageantry of the unspoken,
at
your feet the beggary of words,
you
lie there, playing with the axes–
and
at last you are shiny like them.
[Bảy
giờ của đêm, bảy năm của thức tỉnh:
chơi
với rìu,
mi
nằm trong bóng của những thây bị dựng
–ôi
những cây mà mi không chặt! –,
ở
đầu mi cảnh lộng lẫy của điều không nói,
cảnh
bần cùng của ngôn từ ở chân mi,
mi
nằm đó, chơi với rìu –
và
rốt cuộc mi bóng loáng như chúng.]
‘Mi’ này cũng bóng loáng như những cái rìu, điều đó nói
lên rằng nó không phát ra những tia sáng của riêng mình mà ‘rốt cuộc’ tiếp nhận
một thứ ánh sáng từ bên ngoài khiến nó bóng loáng. ‘Mi’ này có thể là một bài
thơ đã một thời đợi chờ ánh sáng của bản dịch. Bài thơ này nằm như một chiếc cầu
giữa ‘cảnh lộng lẫy của điều không nói’ và ‘cảnh bần cùng của ngôn từ’. Trong lối
này, bài thơ là một khoảng không ở giữa. Một không gian tương tự phía trên một
ngưỡng cổng cũng xuất hiện trong bài thơ ‘Gemeinsam’ [‘Chung’]:
Da
nun die Nacht und die Stunde,
so
auf den Schwellen nennt,
die
eingehn und ausgehn,
Since
now the night and the hour
there
upon the threshold names those
who
go in and go out,
[Bởi
vì giờ đây đêm và thời gian
trên
ngưỡng cổng kia gọi tên
những
ai đi vào và đi ra,]
Cuộc
hội ngộ của bản gốc với bản dịch của nó xảy ra trong lúc cấu thành văn bản chứ
không phải lúc sau. Điều này chỉ có thể được hiểu nếu người ta hình dung cấu tạo
này không phải như một điểm đơn độc trên một tuyến thời gian liên tục mà là như
hiện hữu trong một khoảng không ở giữa trên một ngưỡng cổng. Khoảng không ở giữa
không phải là một căn phòng đóng kín, nó là không gian bên dưới một cái cổng.
Tôi bắt đầu xem xét những bài thơ của Celan như những cửa ngõ
hơn là những toà nhà trong đó ý nghĩa có thể được tích trữ như một sự sở hữu.
Suy nghĩ về điều này, một đoạn văn trong ‘Religiöse Autorität und Mystik’ [‘Thẩm
quyền tông giáo và thuyết thần bí’] của Gershom Scholem chợt hiện trong tôi: “Thiên
tư của những bản văn chú giải huyền bí trú ngụ trong sự tinh xác dị thường mà với
nó chúng khơi nguồn những chuyển hoá từ Kinh thánh thành một thể biểu tượng từ
những từ ngữ chính xác của văn bản. Nghĩa đen được bảo tồn nhưng chỉ như một
cái cổng mà nhà thần bí vượt qua, tuy nhiên, lại là một cái cổng mà y có thể mở
ra cho chính mình nhiều lần lặp đi lặp lại.”
Những từ ngữ của Celan không phải là những vật chứa, chúng là
những khai mở. Tôi đi qua cổng mở rộng mỗi lần đọc chúng. Chữ tượng hình ‘khai’
開 [mở] cũng xuất hiện
trong tập thơ này, trong dòng thơ cuối then chốt của bài ‘Ein Körnchen Sands’
[‘Một hạt cát]:
und
ich schweb dir voraus als ein Blatt,
das
weiß, wo die Tore sich auftun.
and
I waft before you, a leaf
that
knows where the gates will open
[và
tôi thoảng qua trước em, một chiếc lá
vốn biết nơi nào những cái cổng sẽ mở ra]
Viết một từ nghĩa là mở ra một cổng. Đọc những con chữ là
đọc những từ ngữ, không phải những câu hay âm thanh. Tính khả dịch đầy lôi cuốn
của những bài thơ của Celan rất có thể nằm trong nghĩa đen của chúng. Chính
Celan cũng thường nói về từ chẳng hạn trong bài thơ đầu tiên:
und
über dem Wasser ein Wort,
and
above the water a word,
[và
trên nước một từ,]
hay trong ‘Strähne’ [‘Những lọn tóc’]:
Dies
ist ein Wort, das neben den Worten einherging,
ein
Wort nach dem Bilde des Schweigens,
umbuscht
von Singrün und Kummer.
This
is a word that walked beside the words,
a
word after the image of silence,
hedged-in
with creeping myrtle and worry.
[Đây
là một từ đi bên cạnh những từ,
một
từ theo sau hình ảnh của lặng im,
được rào bằng dừa cạn và đau buồn.]
Trong bài thơ này, ‘từ’ [‘wort’] được phân biệt rõ với ‘ngôn
ngữ’ hay ‘lời nói’ [‘sprache’]: từ mô phỏng sự im lặng, trong khi ngôn ngữ lại
làm tổn thương thân thể của nhà thơ:
ein
Wort, das mich mied,
als
die Lippe mir blutet’ vor Sprache
a
word that avoided me
when
my lip was bloody with speech
[một
từ mà né tránh tôi
khi
môi tôi đẫm máu cùng lời]
Tôi
so sánh những từ ngữ của Celan với những cái cổng và nhớ lại rằng Benjamin [tức
Walter Benjamin] có diễn tả sự theo y nghĩa đen trong một bản dịch như một
‘vòm’ [‘arcade’]: “Bản dịch chân chính thì trong mờ; nó không che giấu bản gốc,
không ngăn cản ánh sáng chiếu xuống từ trên nó, mà để cho ngôn ngữ thuần khiết
– như thể được tăng cường dù bằng phương tiện của chính nó – chiếu sáng lên bản
gốc một cách trọn vẹn hơn. Điều này có thể đạt được, trên tất cả, bởi một sự
phiên dịch theo nghĩa đen của cú pháp, vốn chứng tỏ từ mới là yếu tố căn bản [Urelement]
của người dịch chứ không phải câu. Vì câu là bức tường trước mặt ngôn ngữ của bản
gốc, và sự theo y nghĩa đen là vòm.” Một vòm bao gồm, nếu bạn đồng ý, nhiều cổng
được đặt hết cái này đến cái khác. Nếu mỗi từ trong những từ ngữ của Celan bao
gồm một ‘môn’, thì bài thơ như một toàn thể có thể tương tự một ‘vòm’.
Giờ tôi sẽ vượt qua cổng cuối cùng trong Sieben Rosen Später
[‘Bảy Bông hồng Sau’]: Chữ thứ bảy với bộ-thủ ‘môn’: ‘ám’ 闇 [‘dunkel’ hay ‘bóng tối’]
xuất hiện trong hai trong số những bài thơ, trong ‘Von Dunkel Zu Dunkel’ [‘Từ bóng
tối tới bóng tối’] và ‘Der Gast’ [‘Vị khách’]. Liên quan tới cấu tạo của nó,
đây là một kí hiệu huyền bí đặc thù, vì ở đây một ‘âm’ 音đứng bên dưới cái ‘cổng’ 門 [môn] được coi là tạo
nghĩa bóng tối. Tôi đọc bài thơ Von Dunkel Zu Dunkel [‘Từ bóng tối tới bóng tối’]
của Celan như thể nó chứa đựng một manh mối về cấu tạo của kí hiệu này:
Du
schlugst die Augen auf – ich seh mein Dunkel leben.
Ich
seh ihm auf den Grund:
auch
da ists mein und lebt.
Setzt
solches über? Und erwacht dabei?
Wes
Licht folgt auf dem Fuß mir,
daß sich ein Ferge fand?
You
opened your eyes – I saw my darkness live.
I
see through it down to the bed;
there
too it is mine and lives.
Is
that a ferry? Which, crossing, awakens?
Whose
light can it be at my heels
for a boatman to appear?
[Em
đã mở mắt – tôi đã thấy cái tối của mình sống.
Nay
tôi nhìn qua đó xuống giường;
ở
đó cũng nó là của tôi và sống.
Phải
chăng đó là một con đò? Mà, vượt qua, làm thức tỉnh?
Ánh
sáng ai có thể ở gót tôi
cho
một người đưa đò xuất hiện?]
Sau
khi đọc bài thơ này, tôi giải thích cho chính mình con chữ gây rối trí, ‘ám’ 闇, như sau: Rằng cái vốn
không còn có thể đại diện bằng ‘ngôn ngữ’ được nữa, ‘bóng tối’, có lẽ nằm sau
cái ‘cổng’, nhưng không thể chăm chú nhìn xuyên qua cái ‘cổng’ này bởi vì một
âm thanh đang đứng chặn giữa lối [tức là ‘ngay bên dưới cái cổng’]. Đồng thời, có
một nỗi kính sợ rằng có lẽ tiến tới lối vào bóng tối là hoàn toàn không thể nếu
như âm thanh này không còn tồn tại nữa. Âm thanh này đang chặn cái ‘cổng’,
nhưng nó cũng là trung gian kết nối bên này của cái ‘cổng’ với bên kia. Người
ta phải nghe thấy nó, rồi nó sẽ không còn ngăn trở thị kiến của người ta nữa.
Bài thơ ‘Von Dunkel Zu Dunkel’ – vượt trên mọi thắc mắc: Setzt
solches über? [‘Phải chăng đó là một con đò?’ hay ‘Một thứ như vậy có vượt
qua chăng?’ ‘Nó có chuyển dịch?’] – mời gọi tôi nghĩ ngợi thêm một chút về cấu
tạo của một bài thơ và bản dịch của nó. Trong đoạn thơ đầu tiên, một bản dịch vốn
chưa tồn tại đang xem xét nhà thơ [‘Em đã mở mắt’], và y cảm nhận được bóng tối
bên trong mình. Với sự việc này, bài thơ bắt đầu vận động. Đoạn thơ thứ hai là
về chuyến đi tìm một bản dịch. Câu hỏi được nêu ra là một điều như vậy [bóng tối]
có thể được chuyển qua [chuyển dịch] hay không, và điều này có thể khiến nó làm
thức tỉnh hay không. Thật đáng yêu khi hình dung cái gì đó làm thức tỉnh thông
qua bản dịch của nó. Cho tới khi người dịch [người đưa đò] được tìm ra, tác giả
cứ đứng đó mất phương hướng, bơ vơ và vô định. Y tự hỏi mình: ‘Ánh sáng ai có
thể ở gót tôi cho một người đưa đò xuất hiện?’
Thật đáng yêu rằng điều đó vẫn để
mở khi tiến trình viết bắt đầu và khi nó được hoàn tất. Có lẽ tiến trình này sẽ
tiếp diễn cho tới khi bài thơ được dịch ra ngôn ngữ cuối cùng.
Trong bất cứ trường hợp nào, thật là một phép màu rằng Celan
đã có thể viết ‘Sieben Rosen Später’ [‘Bảy Bông hồng Sau’] mà không có sự trợ giúp
của một cuốn tự điển về chữ Trung-hoa. Chính xác có bảy chữ tượng hình khác
nhau chứa bộ-thủ ‘môn’ được dùng trong bản dịch: ‘quắc’ 閾 [ngưỡng], ‘môn’ 門 [cổng],’văn’ 聞 [nghe], ‘khai’ 開 [mở], ‘gian’ 間 [khoảng không ở giữa], ‘thiểm’
閃 [thoáng], ‘ám’ 闇 [bóng tối]. Điều này
tương ứng với bảy bông hồng hay bảy giờ – con số kì ảo được nhắc đi nhắc lại. ‘Bảy
bông hồng’ biểu hiện một chu kì thời gian, như có thể thấy trong câu nói: ‘bảy
bông hồng sau’. Trong khi bạn đang đọc, mỗi ‘bông hồng’ mở ra giống như một chữ
tượng hình, như một cái ‘cổng’ [môn] hay như một ‘khoảng không ở giữa’ [gian].
Bộ-thủ ‘môn’ là yếu tố hiển hiện trong bản dịch này cho chúng
ta thấy tại sao bản dịch cũng hữu hiệu như tác phẩm. Bản dịch không phải là
hình ảnh của bản gốc mà đúng hơn là, trong bản dịch một ý nghĩa của bản gốc được
ban cấp một hình hài mới [một hình hài được viết
ra, trong trường hợp này, chứ không phải một hình hài để âm thanh vang dội bên
trong]. Walter Benjamin viết: “Tính khả dịch là một đặc tính căn cốt của một số
tác phẩm, vốn không phải để nói lên rằng căn cốt ở chỗ chúng được dịch; mà nó
có nghĩa rằng một tạo nghĩa chuyên loại vốn có trong bản gốc sẽ biểu lộ chính mình
trong tính khả dịch của nó.”
*
Ghi chú của người dịch bản
tiếng Anh (Susan Bernofsky): Những bản dịch về Celan được sử dụng ở đây là của chính
tôi, với ngoại lệ là bài thơ ‘From Darkness to Darkness’ [‘Từ bóng tối tới bóng
tối’], được dịch bởi Michael Hamburger. Những bản dịch về Walter Benjamin là của
Harry Zohn (được tôi biên tập đôi chút), và những bản dịch về Gershom Scholem
là của Ralph Manheim.
*
Về tác giả và người dịch bản tiếng Anh:
Tawada
Yōko là tác giả người Nhật hiện đang sống tại Berlin, Đức. Bà viết bằng cả tiếng
Nhật và tiếng Đức.
Susan
Bernofsky, đồng chủ tịch của PEN Translation Committee [Uỷ ban Phiên dịch PEN],
là dịch giả sáu cuốn sách của tác giả theo chủ nghĩa hiện đại người Thuỵ-sĩ nói
tiếng Đức Robert Walser, cũng như những tiểu thuyết của Jenny Erpenbeck, Tawada
Yōko, Hermann Hesse, Gregor von Rezzori và những tác giả khác.
*
K.H. dịch từ bản Anh văn của
Susan Bernofsky
Nguyễn Tiến Văn hiệu đính
Nguồn:
Tawada
Yōko. (2013). Celan reads Japanese.
The White Review. http://www.thewhitereview.org/features/celan-reads-japanese/
No comments:
Post a Comment