César Aira
Con chó
Hôm ấy tôi ở trên xe buýt, ngồi cạnh cửa sổ, nhìn ra ngoài đường. Bất thần, một con chó bắt đầu sủa ầm ĩ gần đó. Tôi rán nhìn xem nó ở đâu. Mấy hành khách khác cũng nhìn như tôi. Xe buýt không quá đông: tất cả ghế đều có người ngồi, chỉ vài người đứng; họ có cơ hội tốt nhất để thấy con chó, vì họ nhìn từ vị trí cao hơn và nhìn được ra cả hai bên. Ngay cả với người đang ngồi như tôi, xe buýt cũng cho tầm nhìn cao, giống như loài ngựa đối với tổ tiên ta: la perspective cavalière [viễn cận kị sĩ]. Đó là lí do tôi thích xe buýt hơn xe hơi, vì xe hơi chở bạn ở vị trí thấp, sát mặt đất. Tiếng sủa phát ra từ bên tôi ngồi, phía vỉa hè, điều đó hợp lẽ. Tuy vậy, tôi vẫn không thấy được con chó, và do xe đang chạy nhanh, tôi nghĩ quá muộn rồi; chúng tôi hẳn đã bỏ lại nó đằng sau. Con chó đã khơi dậy một chút hiếu kì vốn luôn có mặt xung quanh một sự cố hoặc một tai nạn, nhưng ở trường hợp này, ngoài âm lượng của tiếng sủa, gần như không gì cho thấy có điều gì đã xảy ra: mấy con chó người ta dắt đi trong thành phố hiếm khi sủa, trừ phi sủa những con chó khác. Vậy là sự chú ý của các hành khách bắt đầu phai đi . . . rồi bất thần người ta tập trung trở lại: tiếng sủa vang lên lần nữa, lớn hơn trước. Lúc đó tôi thấy con chó. Nó chạy dọc vỉa hè và sủa vào xe buýt, đuổi theo xe, phóng thật nhanh hòng bắt kịp xe. Điều này thật lạ. Ngày xưa, ở các thị trấn miền quê và các khu ngoại vi thành phố, chó thường chạy theo xe, sủa vào bánh xe; đó là điều tôi nhớ rõ từ thời thơ ấu ở Pringles. Nhưng giờ ta không còn thấy điều đó nữa; như thể chó đã tiến hoá và trở nên quen với sự hiện diện của xe. Và hơn nữa, con chó này không sủa vào bánh xe buýt mà sủa vào nguyên chiếc xe, ngẩng đầu lên, nhìn chăm chăm cửa sổ. Tất cả hành khách đều nhìn ra. Có lẽ chủ của con chó đã lên xe, quên mất nó hoặc bỏ rơi nó? Hoặc có lẽ ai đó đã tấn công người chủ hoặc cướp đồ của người chủ? Nhưng không, xe buýt nãy giờ đang chạy dọc theo phố Avenida Directorio liên tục không dừng qua mấy dãy nhà , và chỉ đến dãy nhà hiện thời thì con chó mới bắt đầu đuổi theo. Những giả thuyết phức tạp hơn – chẳng hạn như xe buýt đã cán qua chủ con chó hoặc một con chó khác – có thể gạt ra được rồi, vì không có chuyện như vậy. Hôm đó là chiều Chủ nhật và đường phố tương đối trống trải: một vụ tai nạn xảy ra thì ắt là người ta sẽ biết.
Con chó khá to, và màu xám đậm, có mõm nhọn, ở đâu đó giữa loài thuần chủng và chó hoang sống ngoài đường, mặc dù chó hoang là cái thuộc về quá khứ ở Buenos Aires, ít nhất ở những khu dân cư mà chúng tôi đi băng qua. Nó không to đến mức mới nhìn thấy sợ, nhưng nó cũng to vừa đủ doạ người ta nếu nó tức lên. Và nó có vẻ đang tức hoặc đúng hơn là đang tuyệt vọng và quẫn trí (ít ra vào lúc này). Cái xung động xui khiến nó không phải (hoặc ít nhất vào lúc này không phải) là cơn hung hăng mà là một khao khát cấp bách muốn bắt kịp xe buýt, hoặc muốn ngăn xe lại, hoặc . . . ai mà biết?
Cuộc đua tiếp tục, kèm theo tiếng sủa. Chiếc xe buýt, ban nãy bị đèn đỏ níu giữ ở góc đường trước đó, đương tăng tốc. Nó chạy dọc sát vỉa hè, và trên vỉa hè đó con chó đương chạy, dần bị tuột lại sau. Chúng tôi sắp tới giao lộ tiếp theo, tại đó dường như cuộc rượt đuổi này sẽ đến hồi kết. Nhưng, trước sự ngạc nhiên của chúng tôi, khi chúng tôi tới đó, con chó băng qua khu nhà kế tiếp và tiếp tục đuổi theo chúng tôi, cũng tăng tốc, rồi sủa suốt quãng đường đó. Trên vỉa hè chẳng có mấy người, không thì nó ắt hẳn sẽ tông ngã người ta, khi đang chạy lao đi kiểu đó, ánh mắt dán chặt vào ô cửa sổ xe buýt. Mấy tiếng sủa của nó càng lúc càng lớn hơn; nó gây điếc tai, nhấn chìm tiếng động cơ, lấp đầy cả thế giới. Sau rốt thì người ta cũng ngẫm ra được một điều chi đó lẽ ra hiển nhiên ngay từ ban đầu: con chó đã thấy (hoặc ngửi ra) một ai đó đang đi trên xe buýt này, và nó đuổi theo người ấy. Một hành khách, một người trong số chúng tôi . . . Rõ ràng ai cũng nghĩ đến lí giải đó; mọi người bắt đầu nhìn quanh với vẻ mặt tò mò. Ai đó quen biết con chó này à? Chuyện là sao đây? Một người chủ cũ, hoặc ai đó mà con chó từng biết . . . Tôi cũng nhìn quanh, và tự nhủ, Có thể là ai nhỉ? Trong một trường hợp thế này, người cuối cùng bạn nghĩ đến chính là bản thân mình. Tôi mất một hồi mới nhận ra vậy. Và sự nhận ra như thế là gián tiếp. Bất thần, bị lay động bởi cái hãy còn là một linh cảm lờ mờ, tôi nhìn đằng trước, qua kính chắn gió. Tôi thấy con đường thật thông thoáng: trước mặt chúng tôi một hàng đèn xanh trải rộng gần như đến tận chân trời, hứa hẹn một chặng đường đi lẹ làng không ngắt quãng. Nhưng khi ấy, lòng tôi dâng lên nhiều lo nghĩ, tôi nhớ rằng tôi không ở trong xe taxi: xe buýt sẽ có các trạm dừng cố định sau mỗi bốn năm khối nhà. Đúng là nếu không ai đứng ở trạm và nếu không ai nhấn chuông báo xuống trạm, chiếc xe buýt vẫn sẽ chạy tiếp. Không ai ra cửa sau, vào lúc đó. Và nếu có chút may mắn thì trạm tiếp theo cũng chẳng có ai. Tất cả những ý nghĩ này diễn ra trong đầu tôi ngay tức thì. Tôi càng lúc càng lo nghĩ tợn và sắp sửa tìm ra từ ngữ có thể diễn bày sự lo này. Nhưng việc này bị trì hoãn do tình trạng cấp bách của cảnh huống. Liệu có cơ may nào cho chúng tôi cứ đi tiếp mà không phải dừng lại cho đến khi con chó từ bỏ màn truy đuổi? Sau khi quay ánh nhìn chỗ khác chừng một khắc, tôi lại nhìn nó. Nó vẫn tiếp tục chạy, vẫn cứ sủa như bị quỷ ám . . . và nó nhìn lại tôi. Giờ thì tôi đã hiểu: tôi chính là người mà nó đang sủa, người mà nó đang đuổi theo. Tôi nghe lòng mình một nỗi thất kinh vốn thường gặp ở những thảm hoạ bất chợt. Tôi đã bị con chó nhận diện, và nó đang tới chỗ tôi. Và trong khoảnh khắc sục sôi ấy, dẫu cho tôi kiên quyết chối bỏ mọi sự, và không thú nhận điều chi, nhưng sâu thẳm lòng mình tôi biết rằng nó đúng còn tôi sai. Vì tôi đã từng ngược đãi con chó ấy; điều tôi từng làm với nó là một gớm ghê thực sự và không thể nói nên lời. Tôi phải thừa nhận rằng bấy lâu tôi chưa bao giờ có những nguyên tắc đạo đức thật vững vàng. Tôi sẽ không tìm cách biện minh cho bản thân, nhưng cái thiếu đó có thể được lí giải phần nào bằng cuộc chiến khôn ngớt mà tôi phải tham gia, từ thuở ấu niên, đơn giản là để sống còn. Việc đó dần dà làm tôi hết còn biết điều gì ngay thẳng. Tôi tự cho phép bản thân làm những chuyện mà không một người đứng đắn nào sẽ làm. Hay là đã từng làm? Tất cả chúng ta đều có bí mật của riêng mình. Bên cạnh đó, việc bạc ác của tôi chẳng bao giờ nghiêm trọng đến thế. Tôi đâu có phạm tội ác thực sự. Tôi cũng không quên điều mình đã làm, kiểu giống một thằng du côn làm bậy rồi quên đi. Tôi tự nhủ bản thân tôi sẽ sửa chữa, dù tôi chưa bao giờ thực sự dừng lại để nghĩ xem sửa chữa ra sao. Đây là điều cuối cùng mà tôi mong đợi: bị nhận diện theo một lối kì quái dường này, đối mặt với một quá khứ vốn đã bị chôn vùi thật sâu đến mức chừng như đã bị lãng quên. Tôi nhận ra bấy lâu tôi tin rằng mình sẽ được miễn trừ tội trạng bằng cách nào đó. Tôi đã giả định, như bất kì ai ở vị trí tôi, rằng một con chó dầu gì cũng là một con chó, tính cá nhân của nó sẽ bị hút vào loài của nó rồi sau cùng biến mất. Và cùng với sự biến mất ấy thì tội lỗi của tôi cũng sẽ tan biến. Sự phản bội đáng khinh bỉ của tôi đã cá nhân hoá con chó trong một lúc, nhưng chỉ một lúc thôi. Có thứ gì đó siêu nhiên và đáng sợ về ý tưởng rằng cái lúc như vậy đã kéo dài hàng bao nhiêu năm. Nhưng, khi tôi xét nghĩ chuyện này, một hi vọng xuất hiện, và tôi nắm lấy nó: quá nhiều thời gian đã trôi đi. Bọn chó đâu sống lâu đến vậy. Nếu tôi nhân số năm cho bảy . . . Những ý nghĩ này nhào tới lui trong đầu tôi, va đụng với những tiếng sủa bị bóp nghẹt đang mỗi lúc một to hơn. Không, làm gì có chuyện quá nhiều thời gian đã qua đi; làm tính cộng chỉ là một cách nối dài thêm trò tự lừa mị bản thân. Hi vọng sau cuối của tôi là một phản ứng tâm lí kinh điển của việc rút mình vào cảnh chối bỏ khi đối diện với một thứ quá sức kham chịu: “Không thể nào, việc này không thể xảy ra, mình đang mơ, mình hẳn là đã diễn giải sai dữ liệu.” Lần này thì đây không chỉ là một phản ứng tâm lí, đây là điều có thật. Thật đến mức tôi không thể nhìn vào con chó; tôi sợ cái điều mà nó đang bày tỏ ra. Nhưng tôi quá bồn chồn đến mức khó lòng giả vờ lãnh đạm. Tôi nhìn thẳng ra trước. Tôi hẳn là người duy nhất; tất cả những hành khách kia đều đang dõi theo cuộc đua, bao gồm cả ông tài xế, người cứ hay ngoái đầu lại nhìn, hoặc dùng kính chiếu hậu, và cười đùa với mấy người khác ở đàng trước. Tôi ghét hắn như thế: sự xao lãng đó làm hắn lái chậm lại; bằng không thì sao mà con chó có thể bắt kịp tốc độ suốt đoạn đường cho đến chỗ giao lộ thứ nhì? Nhưng nếu nó bắt kịp thì có gì quan trọng chứ? Nó có thể làm gì, ngoại trừ việc sủa? Nó sẽ không lên được xe buýt. Sau cú sốc ban đầu, tôi bắt đầu đánh giá tình hình theo cách lí trí hơn. Tôi đã quyết định chối bỏ việc mình có biết con chó này, và tôi giữ vững quyết định đó. Một pha tấn công, mà tôi cho là không thể nào (“tiếng sủa của nó tệ hơn cả việc nó cắn”), là cái sẽ cho tôi vào vai nạn nhân và khiến người xem đến giúp tôi, và cả các lực lượng trị an nếu cần. Nhưng, dĩ nhiên, tôi sẽ không cho nó có cơ hội đó. Tôi sẽ không xuống xe đến khi nào nó biến mất dạng, và việc nó biến mất sẽ xảy ra không sớm thì muộn. Chiếc 126 đi thẳng đến phố Retiro, dọc theo một tuyến đường ngoằn ngoèo sau khi rời khỏi Avenida San Juan, và không thể hình dung nổi một con chó có thể bám theo suốt đoạn đường như thế. Tôi đánh bạo liếc nhìn nó, nhưng lập tức nhìn ra chỗ khác trở lại. Hai ánh mắt của tụi tôi gặp nhau, và cái tôi thấy trong đôi mắt nó không phải cơn thịnh nộ mà tôi mong chờ mà là một nỗi thống khổ không bến bờ, một nỗi đau không thuộc về con người bởi vì đó còn hơn cả điều một người có thể kham chịu. Điều sai trái mà tôi từng làm với nó lại nghiêm trọng đến thế sao? Đây không phải lúc khởi sự việc phân tích. Và dù gì, chỉ có thể có một kết luận. Chiếc xe buýt tiếp tục tăng tốc. Chúng tôi băng qua giao lộ thứ nhì, và con chó, rớt lại sau, cũng băng qua luôn, ở trước một chiếc xe hơi dừng đèn đỏ; nhưng nếu xe đó di chuyển, nó cũng sẽ băng qua y như vậy, nó đang chạy hết sức mù quáng. Tôi xấu hổ khi thừa nhận điều này, nhưng tôi mong nó bị cán chết. Những việc như vậy ai cũng biết đã từng xảy ra: có một cuốn phim trong đó một người Do-thái ở New York nhận ra một tay kapo từ một trại tập trung nọ cách đây bốn mươi năm, và bắt đầu truy đuổi y, và bị một chiếc xe cán qua chết ngay. Nhớ cảnh đó làm lòng tôi trầm uất, chứ không mang lại chút nhẹ nhõm gì như mấy ý nghĩ trước, vì chuyện này xảy ra trong phim hư cấu và thế là làm cho thực tại của cảnh huống tôi đây càng hiển nhiên hơn nữa. Tôi không muốn nhìn con chó lần nữa, nhưng tiếng nó sủa cho biết nó đang tụt lại phía sau. Tài xế xe buýt, rõ ràng chán cười đùa rồi, đã đạp nhấn ga. Tôi đánh bạo quay đầu nhìn. Sẽ không có nguy cơ thu hút chú ý vào tôi do ai cũng làm vậy; trái lại, có lẽ dễ gây nghi ngờ hơn nếu tôi là người duy nhất không nhìn. Tôi cũng nghĩ đây có thể là lần cuối tôi lướt nhìn nó; một cuộc chạm trán tình cờ như thế sẽ không xảy ra lần nữa. Vâng, nó rõ ràng tụt lại phía sau. Dường như nó trông nhỏ hơn, đáng thương hơn, gần như trông tức cười. Những hành khách khác bắt đầu cười phá lên. Nó là một con chó già, mệt lử, đang trên bờ vực của cái chết, có lẽ vậy. Những tháng năm phẫn nộ và phẫn hận nằm đằng sau cơn bộc phát ấy đã để lại vết hằn. Cuộc đua này lẽ ra đã làm nó vong mạng. Nhưng nó đã đợi chờ quá lâu cho cái thời khắc này, nó sẽ không bỏ cuộc. Và nó đã không bỏ cuộc. Măc dù nó biết nó sẽ thua, nó vẫn cứ chạy cứ sủa, cứ chạy cứa sủa. Có lẽ khi nó để xe buýt chạy xa tới mất dạng thì nó vẫn cứ chạy cứ sủa mãi không thôi, vì đâu còn gì khác mà nó có thể làm. Tôi mường tượng thoáng qua dáng hình của con chó trong một phong cảnh trừu tượng (cõi vô hạn) và cảm thấy buồn sầu, nhưng đó là một cảm giác an tĩnh, gần như là một cảm giác thẩm mĩ, như thể nỗi thương tâm ấy đang nhìn tôi từ một quãng xa vợi giống như tôi hình dung mình đang nhìn con chó vậy. Tại sao người ta lại bảo quá khứ không quay trở lại? Toàn bộ quá khứ đã xảy đến thật nhanh, tôi chẳng còn thời giờ nghĩ ngợi. Tôi luôn sống ở hiện tại vì lẽ đơn giản rằng chuyện tiếp nhận nó và phản ứng trước nó gần như tiêu tốn hết mọi năng lượng thể chất và tinh thần. Tôi có thể ứng phó được cái tức thời, nhưng chỉ chừng mực nhất định. Tôi luôn thấy quá nhiều thứ đang xảy ra cùng lúc và tôi phải thực hiện một nỗ lực hơn người và cố ra sức nhiều hơn cái sức tôi đang có chỉ để đương cự với cảnh hiện thời. Đó là nguyên do bất kì khi nào có dịp tự giải phóng bản thân khỏi một gánh nặng bằng bất cứ lối nào, tôi đều mặc kệ cái lẽ đạo đức giằng co trong lòng mình. Tôi phải khước bỏ bất cứ điều gì nó không quá cần thiết cho sự sống còn của bản thân. Tôi phải tóm được cho mình một khoảnh không gian, một khoảnh yên bình, bằng mọi giá. Chuyện này có gây hại cho kẻ khác dường bao chẳng phải là điều làm rầy lòng tôi vì lẽ những hậu quả đâu có hiện ra tức thời, nên tôi đâu có thấy được chúng. Và một lần nữa cái hiện tại đang giúp tôi rũ bỏ một vị khách phiền hà. Sự cố này để lại một vị ngọt đắng lẫn lộn trong miệng tôi: một mặt, tôi nghe lòng nhẹ nhõm khi đã thoát được trong gang tấc; mặt khác, một cảm giác ăn năn dễ hiểu. Làm một con chó thật là buồn. Khi sống với số mệnh luôn có cái chết kề bên, không cách chi đổi khác. Và buồn hơn nữa khi là con chó ấy, một con chó dám vứt bỏ lòng cam phận trước số mệnh của giống loài, để rồi thấy rằng tổn thương một khi đâm vào nó sẽ không bao giờ lành lặn. Cái bóng của nó in trên ánh trời ngày Chủ nhật Buenos Aires, trong trạng thái xao động không ngừng, vừa chạy vừa sủa, đã vào vai một bóng ma, trở về từ cõi chết hay đúng hơn là từ nỗi đau của việc sống, để đòi . . . gì chứ? Bù đắp? Một lời xin lỗi? Một cái vỗ về? Nó có thể muốn gì khác nữa chứ? Chuyện báo thù đâu thể nào, vì nó học được từ kinh nghiệm rằng nó không có năng lực gì trước thế giới không thể công kích của loài người. Nó chỉ có thể bày tỏ chính mình; nó đã làm thế, và toàn bộ điều nó đạt được là làm cho con tim già yếu phải căng ra. Nó bị đánh bại bởi vẻ ngoài lầm lì, phủ kim loại của chiếc xe buýt đang chạy xa dần, và bởi một khuôn mặt đang trông theo nó qua cửa sổ. Làm sao nó nhận ra được tôi? Hẳn là tôi cũng đã đổi thay nhiều rồi. Kí ức của nó về tôi sống động một cách rõ rệt; có lẽ kí ức đó nằm ở trí óc nó ngần ấy năm đó, chưa hề phai nhạt một lúc nào. Không ai thực sự biết rõ trí óc của một con chó vận hành ra sao. Chuyện nó nhận ra tôi chẳng phải điều chi vượt ra ngoài ranh giới khả dĩ; có những câu chuyện đáng kinh ngạc về nặng lực khứu giác của động vật. Thí dụ như một con bướm đực ngửi mùi con cái cách đó hàng dặm, giữa muôn vàn mùi khác chen vào. Tôi bắt đầu tư biện theo lí trí và đặt mình tách rời ra. Tiếng sủa là một tiếng vọng, cao độ khác nhau, lúc bổng lúc trầm, như thể nó đến từ một chiều không gian khác. Bất thần tôi bị giật nảy ra khỏi dòng nghĩ ngợi bởi một dự cảm mà tôi có thể cảm giác được khắp cả thân thể. Tôi nhận ra mình đã tuyên bố chiến thắng quá nhanh. Chiếc xe buýt nãy đang tăng tốc, nhưng giờ đây nó lại đi chậm dần: đây là điều mà giới tài xế luôn làm khi thấy trạm dừng tiếp theo. Họ tăng tốc, canh đo khoảng cách cần đi, rồi nhả chân ga, và để xe buýt lướt đi đến trạm dừng. Một bà già và một đứa trẻ đang chờ bắt xe. Tiếng sủa lớn lên trở lại. Có lẽ nãy giờ con chó vẫn cứ chạy miết? Nó không bỏ cuộc sao? Tôi không nhìn, nhưng nó hẳn là đang rất gần. Xe buýt đã dừng lại. Đứa trẻ nhảy lên, nhưng bà kia đang từ tốn, cái bậc cửa cao là thứ gây khó cho một người đàn bà ở tuổi ấy. Tôi gào lên trong nín lặng. Lên nào, bà già! và lo âu nhìn những cử động của bà. Thường thì tôi không nói hay nghĩ kiểu đó; thế này là do cơn căng thẳng mà tôi đang chịu, nhưng tôi đã dằn ngay lòng mình. Thực sự không cần lo lắng. Có lẽ con chó đã bắt kịp đoạn đường đã mất kia, nhưng rồi nó sẽ lại mất hút lại thôi. Trong trường hợp tệ nhất, nó tới và sủa ngay trước cửa sổ chỗ tôi theo một cách hiển nhiên, và những hành khách kia sẽ thấy được tôi chính là kẻ mà nó đang đuổi theo. Nhưng chuyện tôi cần làm chỉ là phủ nhận mọi quen biết với con vật kia, và chẳng ai bác lại tôi. Tôi gửi lời cám ơn đến ngôn từ và sự ưu việt của ngôn từ trước tiếng sủa. Bà già đang nhấc cái chân kia lên bậc cửa, còn chút nữa là lên được xe. Tiếng sủa bùng lên làm điếc tai tôi. Tôi nhìn ra bên đó. Nó đang tới, nhanh như viên đạn, nhúm lông phất phơ, vang to hơn bao giờ hết. Thể lực của nó thật phi phàm. Chắc chắn nó bị viêm khớp, ở tuổi nó, như bao con chó già. Có lẽ nó đang dốc hết sức lực còn lại của mình. Cớ gì phải giữ sức lại nếu nó đang dần khép lại cái vòng tròn số mệnh của mình bằng cách trút ra cơn phẫn nộ, khi tìm thấy tôi sau ngần ấy năm? Thoạt tiên (toàn bộ điều này xảy ra trong mấy giây vỡ vụn rồ điên), tôi không hiểu chuyện gì đang xảy ra, tôi chỉ biết chuyện này lạ quá. Nhưng rồi tôi nhận ra: nó không dừng lại trước cửa sổ chỗ tôi, nó tiếp tục chạy. Nó đang làm gì? Liệu nó có thể . . . ? Nó đã đến ngang chỗ cửa trước và, lanh như lươn, nó xoay qua, nhảy lên và lách vào. Nó đang lên xe buýt! Không, nó đã lên xe buýt rồi, và không cần phải đụng ngã bà già – bà ta chỉ cảm thấy có gì đó sượt hai chân bà – nó lại xoay người và, hầu như không chạy chậm lại, vẫn cứ sủa, chạy dọc hành lang . . . Cả tài xế lẫn hành khách đều không có thời giờ để phản ứng; những tiếng la dâng lên trong cổ họng của họ nhưng chưa thoát ra ngoài. Tôi lẽ ra phải nói với họ: Đừng sợ, không phải các vị đâu, tôi mới là người nó đuổi theo . . . nhưng tôi cũng chẳng có thời giờ phản ứng, ngoại trừ việc tê cứng lại sợ hãi. Tôi quả có thời giờ nhìn nó lao tới tôi, và tôi không còn thấy gì khác. Ở cận cảnh, đối mặt, nó trông khác. Cứ như thể lúc nãy khi tôi nhìn nó, qua ô cửa sổ, cái nhìn của tôi bị lọc bởi kí ức hoặc ý tưởng về tổn hại mà tôi đã gây ra cho nó, nhưng ở đó trên xe buýt, cách chừng một sải tay, tôi thấy nó đúng như chính nó. Nó trông còn trẻ, sục sôi, linh hoạt: trẻ hơn tôi và sinh động hơn (nhựa sống đã rò rỉ khỏi tôi ngần ấy năm tựa hồ nước rỉ ra khỏi bồn tắm), tiếng sủa của nó vang vang bên trong xe buýt với uy lực không hề giảm đi, hai hàm răng trắng loá đã sát kề da thịt tôi, đôi mắt sáng lên của nó chưa hề có lúc nào ngưng nhìn đăm đăm vào đôi mắt tôi.
Đoàn Duy chuyển ngữ từ bản Anh văn của Chris Andrews
Nguồn:
César Aira; The Dog; The Musical Brain and Other Stories; New Directions, 2015

No comments:
Post a Comment